Bài viết của HỒ THỊ NGỌC-TRANG (ĐK67- B5, C2)
Sự Tồn Tại Độc Sáng Của Thi Sĩ
Người viết: HỒ THỊ NGỌC TRANG (ĐK67)
Đâu là bổn phận đầu
tiên của thi sĩ? Câu trả lời thật ngắn: Tồn tại độc sáng. Thật hổ thẹn khi một
cá nhân được tính theo từng mớ, từng rổ, theo hàng chục, hàng trăm, nhất là khi
cá nhân đó lại là thi sĩ. Emily Dickinson (1830- 1886) là thi sĩ nữ đặc sắc của
văn học Mỹ mà mỗi bài thơ là một viên ngọc quí duy nhất. Ngay trong trường hợp
đề tài mà bà viết vốn phổ biến và đã được nhiều người trước bà đề cập đến,
tương quan giữa chân lý và cái đẹp, chẳng hạn, thì Emily vẫn tồn tại độc sáng.
Nhà thơ Anh thuộc
trào lưu lãng mạn John Keats (1791-1821) trong ODE ON A GRECIAN URN ( Bài thơ
trên chiếc bình cổ Hy Lạp) viết:
Beauty is truth, truth beauty. That is all
Ye know on earth,
and all ye need to know.
( Cái đẹp là chân
lý, chân lý là cái đẹp.
Đó là tất cả những
gì bạn cần biết trên đời.)
Trong bài thơ I
DIED FOR BEAUTY, Emily viết:
I died for Beauty -
But was scarce
Adjusted in the
Tomb
When One who died
for Truth was lain
In an adjoining
Room.
(Tôi chết vì cái Đẹp
Nằm chưa yên mộ phần
Đã huyệt liền bên hạ
táng
Kẻ vì Sự Thật mạng
vong.)
Mối liên hệ giữa Mỹ
và Chân mật thiết là thế đó. Kẻ này không thể tồn tại thiếu kẻ kia.
He questioned
softly “Why I failed”?
"For
Beauty", I replied.
"And I for
Truth - Themself are one;
We Brethren,
are", He said.
( Người khẽ hỏi
duyên do mệnh một
"Vì cái đẹp"
tôi thì thầm
" Còn tôi - sự
thật - nào đâu khác
Chúng ta huynh đệ"
người giải minh.)
Bản dịch chưa từng
công bố này của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền rất quý, rất hay, rất tín về nội dung,
nhưng không ai chuyển thể được cái hình thức ngôn ngữ "kì khôi" mà
Emily Dickinson sử dụng trong ngữ pháp, cách chấm câu, cách viết hoa ... Thi sĩ
dùng ngôn ngữ như bà muốn. Nào là "Themself are one", nào là "We
Brethren, are", nào là dấu chấm hỏi, dấu phẩy được bỏ ngoài ngoặc kép, nào
là cách dùng dấu gạch nối tùy tiện… như muốn bảo: Tại sao tôi phải theo qui luật
của tiếng Anh nhỉ? Tiếng Anh phải theo tôi chứ! Nói chung,người thưởng ngoạn phải
tự thích ứng với ngôn ngữ của riêng bà. Nhưng hãy tạm thời dẹp cái hình thức
qua một bên. Còn đây, không gian là lòng huyệt mộ, và nhân vật là hai người chết.
Họ chuyện vãn. Cái bối cảnh sao mà bất thường! Nhà thơ Đinh Hùng (1920-1967)
trong bài thơ GỬI NGƯỜI DƯỚI MỘ chỉ nhắn hỏi, có ý định, chỉ mới "muốn":
Trời cuối thu rồi -
Em ở đâu ?
Nằm trong đất lạnh
chắc em sầu ?
Thu ơi ! Đánh thức
hồn ma dậy,
Ta muốn vào thăm nấm
mộ sâu
Hai nhân vật của
Emily thì im hơi luôn để có được cuộc đối thoại đích thực dưới một cõi khác:
And so, as Kinsmen,
met a Night-
We talked between
the Rooms-
( Rồi như thân quyến
đêm phùng ngộ
Chuyện trò qua vách
mộ thâu canh.)
Và thế là họ nói
mãi, nói mãi.
Until the Moss had
reached our lips-
And covered up -
our names.
( Tận lúc rêu lan,
môi phủ kín
Và lấp khuất tính
danh.)
Bỗng chốc tôi thấy
hai dấu gạch nối nằm hai bên chữ -our Names- trở thành cái khung của tấm bia
đá, trên đó ghi tên hai người đạo hữu.
Bài thơ I DIED FOR
BEAUTY của Emity Dickinson chấm dứt, vẻn vẹn 12 dòng. Người đọc trong tôi lên
tiếng để hỏi và tự trả lời:
-Rồi điều gì sẽ xảy
ra?
-Người đời quên
lãng họ, hai con người ấy.
-Những ai chết vì
cái đẹp và chân lý?
-Chính những người
sống vì những ý niệm đó.
- Ngay cả họ cũng
phải chết ư?
-Ai mà chẳng chết?
-May thay cái đẹp
và chân lý thì bất diệt.
-Cho đến một lúc
nào đó không còn ai sống vì chúng nữa.
- Người này chết sẽ
có người khác thay.
- Vâng … À, vâng… Dẫu sao đi nữa … .
NGỌC- TRANG (ĐK67).