Truyện ngắn của TÔN NỮ QUỲNH-DIÊU (ĐK71).
Chiếc Áo Màu Khói Hương
Chuyện của Huế từ thuở "Nước thanh bình ba trăm năm cũ..."*
Huế, "tháng năm chưa nằm đã sáng", mới có tám giờ
mà mặt trời đã lên cao, lâu lâu từng đám mây trắng như những tảng bông gòn lững
lờ trôi trên nền trời trong xanh, quang đãng.
Hôm nay thứ bảy, tôi được Mạ cho phép rủ con bạn thân từ
thuở còn học ở trường tiểu học, Ưu Đàm (con nhỏ này có duyên với Phật, nó
được sinh ra nhằm ngày Phật đản sanh nên Ba Mạ nó đặt cho nó tên của loài hoa
Ưu Đàm), lên nhà bà cô ở Nam Giao chơi, đến sáng chủ nhật thì về coi nhà cho Mạ
đi Chùa. Ưu Đàm có khuôn mặt phúc hậu, tánh tình lại hiền lành, dễ thương
nên tôi thương nó như chị em ruột thịt.
Tôi thả bộ từ
trong Thành nội ra cửa Thuợng Tứ, mùi thơm của hoa sen từ bờ hồ thoang thoảng
theo gió bay lên làm tôi thấy lâng lâng trong lòng. Những cánh sen vươn
cao, thẳng đứng dưới mặt hồ tĩnh lặng, cất mặt nhìn đời "gần bùn mà
chẳng hôi tanh mùi bùn".
Ghé nhà Ưu Đàm ở đường Trần Hưng Đạo, xong hai đứa tà tà đi
về bến Đông Ba, đón xe Từ Đàm để lên Nam Giao là trạm cuối..
Đàn Nam Giao, nơi các Vua nhà Nguyễn thường tổ chức lễ tế
Trời Đất vào mùa Xuân hàng năm. Tưởng tượng ngày xưa Vua Quan võng lọng,
chiêng trống cờ xí ngập đường, thiên binh vạn mã, vậy mà giờ đây chỉ trơ nền
đất, cỏ hoang mọc đầy, như tiếc nuối một thời vàng son vang bóng, mới thấy vạn
vật đều vô thường.
Xe đến bến Nam Giao còn sớm nên tôi và Ưu Đàm từ từ đi bộ vô
nhà bà Cô. Bà là cô ruột của Ba tôi, ngày xưa chồng bà làm Đốc học thời
Pháp nên người ta thường gọi bà là bà Đốc. Chồng và con bà mất sớm, bà ở
vậy thủ tiết thờ chồng và tu tại gia. Hồi còn trẻ bà rất đẹp, cái đẹp
sang đài, quý phái của những người đàn bà Huế xưa.
Ngôi nhà này ở trên một khu đất rộng có đến gần ba mẫu tây,
nằm trên đường lên Tuần. Ba tôi là cháu đích tôn nên ông bà Cố cho Ba Mạ
làm của và luôn thể làm nhà từ đường. Ba thì đi hành quân rày đây mai đó,
Mạ lại hay sợ ma nên xin phép được về phố ở với ông bà Ngoại. Vì vậy bà
Cô tình nguyện ở lại để trông nom hương khói và tu hành.
Tôi vẫn thích con đường không tên này, con đường có nhiều
hoa dại, những cánh hoa ngũ sắc đủ màu, có loại hoa cánh nhỏ như những ngôi sao
màu trắng và vàng xen kẻ với đám lá xanh non. Ban mai mấy giọt sương còn
đọng lại trên cỏ, nhìn từ xa như một tấm thảm thủy tinh mượt mà. Mùi thơm
của hoa dại, lá cây rừng, cộng với mùi nhang trầm thoang thoảng trong gió sớm, quang
cảnh yên vắng như chốn thần tiên.
Trong vườn có đủ thứ cây ăn trái, từ chôm chôm, bìm bịp,
trái chay, sa-po-che, mít, bưởi, ổi, thơm kể cả khoai sắn. Mỗi lần chị em
tôi lên thăm bà, khi về bà cho quà xách nặng cả tay. Trước mặt nhà là một
dãy tùng bách xanh ngát, cộng với màu vàng của hoa mai và cúc, hồng của hải
đường, hoa trang màu đỏ, trắng của hoa sói tạo thành một bức tranh rực rỡ, tươi
mát. Hương thơm của mấy loại hoa hòa lại, tỏa lan khắp cả núi đồi hoang
vu mà chưa chắc có thứ nước hoa đắt tiền nào sánh bằng. Nhất là hoa sói,
sáng sớm tôi hay ra vườn, ngắt vài cánh hoa sói còn đọng sương mai, rửa sạch,
xong cho vào bình, thế là có bình trà sói thơm ngát.
Bà cô rất thương bầy cháu, cứ hè về chị em tôi lại lên ở lại
với bà vài ngày để được thưởng thức mấy món chay thật ngon của bà. Lâu
lâu bà cho tiền ra hàng bún bò của mụ Tôn Bụi bên kia đường, hoặc xuống hàng
chị Xanh ăn bánh gói. Đây chỉ là những quán nghèo ở hai bên đường để bán
cho khách lỡ độ đường, hoặc mấy chị bán lá chè tươi từ trên Tuần về. Ở
Huế có chè Tuần ngon đặc biệt, những ngọn lá chè tươi non, hái vô rửa sạch, vò
nát, bỏ vào ấm nước, nấu thật sôi, cho thêm vài lát gừng đập dập. Tách
chè bốc khói thơm ngát, sau bữa cơm, uống vô một tách nước chè ấm bụng mà lại
dễ tiêu cơm..
****
Tôi và Ưu Đàm thường dậy sớm cùng bà công phu sáng.
Tiếng tụng kinh trầm trầm hòa với nhịp mỏ cùng tiếng chuông gia trì, lâu lâu
điểm thêm mấy tiếng đại hồng chung bên chùa “AA” vang vọng lại, không khí thật
trang nghiêm thanh tịnh. Boong... boong... boong... tiếng chuông ngân
trong gió sớm như thức tĩnh những ai đang còn mê lầm giữa chốn trầm luân mau
tìm về bến Giác. Người thỉnh chuông cũng phải lắng lòng nhất tâm đọc bài
kệ thỉnh chuông để cầu cho muôn loài chúng sinh được an lạc và những âm hồn
được sớm siêu sinh Tịnh Độ. Tiếng chuông đã làm ấm lòng bao tâm hồn lẻ
loi, u hoài.
Trong nhà bà có nhiều kinh sách và tranh ảnh Phật, nhưng tôi
vẫn thích nhất bức hình Đức Phật thành đạo dưới cội Bồ Đề. Cứ mỗi sáng,
sau thời công phu tôi thường ngồi chiêm ngưỡng bức hình Ngài và thấy lòng thanh
thản hơn.
"Chỗ người ngồi một thiên thu tuyệt tác,
Trong vô hình sáng chói nét từ bi". **
Tôi nghĩ người nào tạo được bức hình này chắc là phải có rất
nhiều nhân duyên với Phật Pháp từ muôn ngàn kiếp trước.
****
Sáng chủ nhật, sau khi ăn sáng xong tôi và Ưu Đàm đi bộ ra
bến xe để về phố. Chợt con Ưu Đàm chỉ từ đàng xa,"Từ Tâm, mi thấy
chi không?" thì ra là một người dáng dấp thanh tao, cao dong dỏng, khoan
thai trong chiếc áo màu khói hương, với đôi guốc mộc và chiếc nón mười tám vành
cũng đang trên đường đến bến xe. Sau khi lên xe, tôi mới nhìn rõ, một nhà
sư còn trẻ, rất trẻ, khuôn mặt khôi ngô, sáng sủa, nhất là đôi mắt - đôi
mắt sâu thăm thẳm - như hớp hồn người, làm tôi cũng thấy xao xuyến trong
lòng.
Con Ưu Đàm mở miệng
trước:
- Thầy ơi, cho con hỏi.
Một giọng trầm ấm, nghiêm
trang cất lên:
- A Di Đà Phật, dạ tui
chỉ mới thọ Sa Di thôi.
Nó liến thoắng:
- A, vậy là Sư chú, chú
tu ở Chùa mô mà cũng đi về hướng phố vậy?
- Dạ, tui tu ở Chùa “AA”,
bữa ni về Chùa “BB” để học thêm giáo lý.
- Vậy ra chú là hàng xóm
của con nhỏ ni, nó chỉ vào tôi.
- Hai O đang còn đi học?
- Dạ, em và nó đang học
đệ tam trường Bồ Đề.
Khi xe dừng ở “BB”, sư
chú bước xuống xe và nói:
- Hôm nào rằm, mồng một
rãnh rỗi mời hai O ghé thăm vãng cảnh Chùa.
- Dạ.
Tôi lên mặt, làm rành, bảo
Ưu Đàm:
- Mi không thấy người ta
mặc áo Nhật Bình màu lam hay sao còn hỏi, chỉ có mấy Thầy mới được mặc áo tràng
màu đà thôi.
Con Ưu Đàm hỏi:
- Từ Tâm, mi có thấy
người ni đi tu uổng quá không?
Tôi trả lời "ai
mà biết", nhưng trong lòng tôi cũng thấy "uổng" thật.
Sau khi xe về lại bến
Đông Ba, con Ưu Đàm rủ rê "Từ Tâm, để tuần tới hai đứa mình đi qua
thăm Chùa thử coi sao nghe".
Vậy là lâu lâu tôi và Ưu
Đàm có dịp qua Chùa làm công quả, như phụ quét sân, giúp mấy bác nấu ăn, dọn
dẹp ở nhà trù.
Mỗi lần được gặp Sư chú
là tôi cảm thấy vui vui trong lòng. Những lúc rảnh rỗi, Sư chú thường kể
về sự tích đức Phật cho chúng tôi. Chao ơi, cuộc đời sao mà dễ thương
quá.
Một hôm, nhân lúc phụ
tưới cây, con Ưu Đàm buột miệng hỏi:
- Đi tu có buồn không
chú?
- Dạ không, đã theo đạo
giải thoát của Phật Đà thì không có gì phải buồn cả.
Xong nó lại hỏi:
- Chùa đây có nhận con
gái vô tu không hở chú?
(Con nhỏ hỏi thiệt vô
duyên).
- Dạ không, đây là Chùa
nam, người nữ muốn tu thì phải xin vô Chùa Sư Nữ..
.****
Tuần trước, tôi và Ưu Đàm
ngồi lột hột sen cho bà nấu chè cúng Phật, Ưu Đàm lại nhắc đến chuyện Sư chú.
- Từ Tâm, tau vẫn thắc
mắc người sao đẹp vậy mà đi tu chi cho uổng, nhất là những lúc “người ta” khoác
chiếc y vàng trông "dễ thương" quá mi hí.
- Thì ngày xưa đức Phật
có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp mà còn đi tu nữa là, người ta có lý
tưởng, nói chi đẹp xấu.
Tự nhiên tôi ngẫu hứng,
để hôm nào gặp chú ấy tau sẽ nhại hai câu thơ của Nguyên Sa:
"Y người vàng em về
yêu hoa cúc,
Áo người lam em mến khói
hương chùa", thử coi sao nghe.
Ưu Đàm bảo “con ni
lãng mạn”, rồi hai đứa cười khúc khích.
Tưởng đâu bà cô ra tưới
cây ngoài sân, ai ngờ bà đang ở sau bếp, nghe vậy bà la hoảng "tội
quá con ơi, để cho người ta tu hành, người ta đã cát ái từ thân, bỏ tất cả,
hiến dâng cuộc đời cứu độ chúng sanh, mà bây lại đi chọc ghẹo, tội chết.
Con không nghe người xưa nói "Nhất nhân đắc đạo, cửu huyền
thăng" hay sao. Một người tu đắc đạo là cứu được cả chín đời.
Gia đình nào có phước lắm mới có được người đi tu. Bây đừng có bắt chước
Ma Đăng Già ngày xưa mà phải tội”.
Tôi còn bướng bỉnh cãi
lại:
- Tụi con chỉ nói chơi
thôi mà.
Bà la tôi:
- Chơi gì mà chơi, chơi
rồi thành thiệt mấy hồi.
Con Ưu Đàm sợ quá, chạy
biến lên nhà trên..
****
Kỷ luật nhà chùa nghiêm minh, bữa nọ trong Chùa đang bận rộn
sửa soạn cho ngày rằm lớn. Tôi và Ưu Đàm lên phụ giúp. Hôm đó tôi
gặp và chào Sư chú, vậy mà chẳng biết sao chú ấy lại chẳng nhìn thấy tôi, thế
là tôi nổi giận, rủ con Ưu Đàm không đi Chùa nữa. Trong mấy tuần liền,
tâm tôi đầy phiền muộn, có lúc tôi muốn về lại Chùa ngay, nhưng rồi tự ái đã
giữ chân tôi lại. Ưu Đàm hỏi "có chuyện gì đâu mà mi lại sân
si, tên mi là Từ Tâm mà tâm mi chẳng từ chút nào cả". Tôi quyết định
sẽ không bao giờ lên Nam Giao thăm bà cô nữa. Nhưng rồi tiếng chuông Chùa
vẫn réo gọi trong tâm tưởng, tôi lại rủ Ưu Đàm trở về. Nó la
tôi "con ni nhiều chuyện".
Vừa bước vô cổng tam quan, Sư chú ngừng tay quét lá sân
Chùa, cười hiền hỏi "lâu nay không thấy hai O về Chùa cũng thấy
trông". Ưu Đàm chỉ qua tôi "mấy tuần ni hắn lẫy không về
Chùa". Sư chú nhìn tôi cười cười "đã là con Phật thì không
bao giờ được giận ai quá một đêm. Thôi có hai chén chè đậu xanh cúng Phật
hai O ăn cho đỡ đói." Tôi nghĩ, ít ra cũng phải vậy chứ.
Sáng thứ hai, mới bước chân vào lớp, con Ưu Đàm le te đưa
cho tôi cuốn vở học trò rồi nheo mắt "nì, có người cho mi cái ni, mở
ra coi liền đi". Tôi mở cuốn tập ra, thấy có chiếc lá bồ đề đã ép
khô với những đường gân lá rõ nét nằm ngay ngắn giữa hai trang giấy học trò
thật đẹp và công phu. Thế là tôi vui suốt ngày hôm đó..
****
Không ai hiểu con bằng Mẹ, hình như Mạ đã thấy nơi
tôi "điều gì" đó, nên Mạ biểu chị Bé "theo dõi"
tôi. Hôm kia chị Bé hăm tôi "liệu hồn nghe Xíu, xứ Huế ni trong
nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã hay, ráng mà giữ hồn".
Đám con trai theo tôi mỗi ngày, tại sao tôi chẳng mảy may
rung động, vậy mà chỉ một thoáng khói hương bay qua đã làm mắt tôi biết cay
cay, tim tôi nghiêng hẵn theo tiếng chuông Chùa.
Tại sao Mạ lại sợ, tôi không có ý nghĩ gì vẫn đục, tôi lại
không muốn chiếm hữu, tôi chỉ muốn giữ mãi bóng hình
đó như một kỷ niệm đẹp mà tôi tôn thờ.
Nhiều lúc tôi nghĩ Mạ có cái lý của Mạ, Mạ đã sống đời an
phận như cuộc đời bà Ngoại, bà Cô, đời Mạ, đời những người đàn bà Huế luôn luôn
tự trói mình vào với những định kiến khắt khe của dòng họ từ ngàn xưa để lại,
tự làm khổ mình, không dám nghĩ đến những gi trái với những quy luật đó, để rồi
chỉ được hai tiếng hư danh.
Và rồi cuối cùng, cũng không thể vượt ra khỏi vòng lễ giáo,
vì tôi đang sống trong lòng Huế, tôi phải tuân thủ những điều ấy để được xứng
đáng là đứa con gái ngoan của dòng họ quan gia. Nhưng màu áo khói hương
vẫn luôn ngự trị trong tim tôi, không ai có thể kiểm soát tư tưởng của tôi
được..
****
Đêm nay hai mươi bốn âm lịch, trăng lưỡi liềm vẫn treo lẻ
loi trên nền trời đêm. Tôi nhớ đã đọc trong Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái
Hưng, đại ý "cũng là trăng khuyết nhưng trăng thượng tuần vẫn cho ta
cảm giác ấm áp, vì nó đang đi đến sự tròn đầy hơn là những đêm trăng hạ
tuần". Hèn gì đêm nay tôi thấy ánh trăng thật cô đơn, lạnh lẽo hay
là vì tôi đang cô đơn mặc dù chung quanh tôi lúc nào cũng có đủ người thân và
bạn bè. Hình ảnh chiếc áo màu khói hương vẫn khi ẩn khi hiện, chập chờn
trong tâm tư của tôi.
Hôm qua tôi ghé nhà Ưu Đàm để gắng móc cho xong chiếc mũ len
cúng dường Sư chú trong những ngày lạnh sắp đến. Tôi coi đây chính là
niềm vui mỗi ngày của mình.
Nhưng rồi đến khi hoàn thành được chiếc mũ len thì chiến
cuộc lan tràn, đâu đó đã có tiếng súng vọng lại, hỏa châu đêm đêm soi sáng cả
một vùng rừng núi thâm u. Mạ sợ quá, và đây cũng là lý do chính đáng của
Mạ nên tuyệt đối cấm không cho tôi lên Nam Giao nữa, rồi cũng chỉ vài tuần sau,
bà cô đã phải đóng cửa ngôi từ đường, tản cư về dưới phố. Vậy là chiếc mũ
len đã không bao giờ đến được tay người nhận. Cơn gió lốc đã cuốn đi tất
cả..
****
Gần ba mươi năm sau, người thiếu phụ ở phương xa ghé thăm
chốn cũ thì bà cô đã viên tịch, ngôi từ đường bị những người bên kia trở về
chiếm lấy chia năm xẻ bảy, mất đi cái vẻ uy nghiêm tĩnh mịch ngày trước. Tìm về
Chùa xưa, chiếc áo màu khói hương chỉ còn trong quá khứ, hay là đã theo gió mà
tan vào hư vô.
Cô chợt nhớ đến hai câu thơ:
"Đập cổ kính ra tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại để dành hơi..."
***
Cô trở lại con đường cũ, một quãng đời thơ mộng, an vui của thời con gái nay đã không còn nữa, thật sự không còn gì nữa, chỉ có chiếc lá bồ đề được ép cẩn thận trong hai trang giấy học trò là còn nguyên vẹn. Vài con chim "ò ho" lẻ bạn lên tiếng gọi đàn. Chiều đang dần buông, chỉ còn lại chút ráng chiều héo hắt níu kéo một ngày đã qua, tiếng chuông chùa thong thả ngân vang như đang cảnh tỉnh muôn loài...
Tác giả: QUỲNH-DIÊU (ĐK71)
Tháng 5,
2017
(Viết theo lời kể của cô TL)
-------------------------------------
* Thơ Chinh Phụ Ngâm khúc