(Truyện ngắn sưu tầm)
.
(nguồn: Internet)
.
.
Mình Yêu Nhau Nhiều Hơn Thế
Nữa
Nữa
.Tác giả: Phạm Diễm Hương.
Năm 1970, sau khi đậu Tú Tài phần 2, tôi theo Bố vào Saigòn để thu xếp nơi ăn chốn ở cho hành trình đại học của tôi. Theo dự định, ban đầu tôi sẽ ở tạm nhà Bác Thinh, sau đó, sẽ vào nội trú ở Regina Pacis khi có chỗ.
Năm 1970, sau khi đậu Tú Tài phần 2, tôi theo Bố vào Saigòn để thu xếp nơi ăn chốn ở cho hành trình đại học của tôi. Theo dự định, ban đầu tôi sẽ ở tạm nhà Bác Thinh, sau đó, sẽ vào nội trú ở Regina Pacis khi có chỗ.
Bác Thinh là anh ruột của Bố tôi, nhà
bác Thinh ở trong một ngõ, trên đường Trương Minh Giảng, trước mặt rạp hát Minh
Châu, gần trường Lê Bảo Tịnh. Dãy nhà trong ngõ chia tường với nhau, nhà nào
cũng như cái ống, bịt một đầu, còn đầu kia có một cửa sổ, và một cửa ra vào.
Phía trước nhà nào cũng có một tường gạch cao quá đầu người, che một khoảnh sân
hẹp.
.
Bác Thinh có tám người con, sáu gái và
hai trai nhỏ sau cùng. Hai chị lớn là Hiển và Ngàn cách nhau một tuổi, chị Ngàn
bằng tuổi tôi, cả ba chúng tôi thi Tú tài cùng một năm. Nhà có tất cả 11 người
kể cả tôi, chia nhau ba phòng ngủ nhỏ ở cuối nhà. Bố tôi ở lại Saigòn thêm hai
ngày nữa, thì trở ra Đà Nẵng, tôi chính thức là sinh viên tỉnh lẻ lên thành phố
trọ học.
.
Ngày đầu tiên của cuộc đời sinh viên,
tôi cùng hai chị tìm nơi ghi tên học luyện thi Nha Dược, còn muốn vào trường Y,
phải có chứng chỉ SPCN của đại học Khoa học, sau đó mới được dự kỳ thi tuyển
vào Y khoa. Ba chị em chúng tôi đều được gia đình khuyến khích học Y, thậm chí
bà con xa gần cũng ước mơ như thế, ước mơ đó lớn và thật đến nỗi dường như mọi
người đều tin rằng nay mai, chúng tôi sẽ là những bác sỹ làm nở mày nở mặt dòng
họ. Chúng tôi đã hoang mang, có lúc hoảng sợ khi nghĩ đến khả năng mong manh
của mình, cho nên cả ba cố gắng học luyện thi Nha, Dược, để phòng hờ lỡ sau này
không vào được Y, thì cũng học được một trong hai nghề … dính líu tới Y, chứ
không thể … xôi hỏng bỏng không được. Cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu tại
sao và từ hồi nào chúng tôi tự mang trách nhiệm hoàn thành ước mơ của đại gia
đình như thế.
.
Ba chị em học ngày học đêm, thấm thoát
đã đến ngày thi, bác Thinh gái nấu một nồi xôi đậu đỏ cho chúng tôi ăn sáng, và
truyền là: “Thế nào các chị cũng đậu!”
Nơi thi là giảng đường của trường Dược
và Văn khoa trên đường Cường Để. Thi xong chúng tôi gặp nhau, hy vọng tràn trề,
ai cũng phởn phơ, vì bài thi khá dễ. Đến ngày coi bảng, tên ba chị em bị lạc
mất hút vào vũ trụ. Chao ôi, lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy hụt hẫng, cứ
như bị hụt chân rớt xuống sông vậy. Chúng tôi buồn nẫu, không nói câu nào, bò
về nhà, Bác tôi đứng đón ở cổng hỏi to: “Sao? Vào được trường nào, đậu có cao
không?” Chúng tôi lầm lũi dắt xe vào sân. Bác tôi biết ngay tình hình thực tế,
bèn chuyển qua giảng moral: “Học với hành, suốt tối, tao chỉ thấy chúng mày nói
chuyện, cười cợt, chứ học hành gì! Tối nào cũng gọi con Hoa sang, rồi hát hò,
không rớt sao được!”
Trời ơi, chúng tôi học sói cả đầu, mờ
cả mắt, mụn đua nhau nổi đầy trên mặt, chỉ thỉnh thoảng cuối tuần, chị Hoa (con
bác Ba) mới sang chơi. Thế mà cũng bị mắng, thật là oan Thị Kính! Nhưng quan
trọng là Bác tôi mắng to quá, cứ sang sảng, chúng tôi không biết chui vào đâu mà
trốn. Số là sát cạnh nhà, có một anh chàng trạc tuổi chúng tôi, một hôm mấy chị
em đang nói chuyện và rúc rích cười, thì nghe “bên kia” hỏi nhỏ: “Cho cười hùn
với được không?”. Thế là từ đó chúng tôi không dám nói to, không dám cười to.
Chị Ngàn cho biết “tay này” học Võ trường Toản, hình như ban B, hay “góp
chuyện” vô duyên lắm. Bây giờ Bác mắng ào ào thế này thì chết rồi, “bên kia”
chắc chắn nghe hết!
.
Đúng y như vậy, khi ba chị em vào
phòng ngủ, cũng là phòng học, “bên kia” hỏi qua: “Bộ rớt rồi hả? thôi đừng
buồn". Rồi có tiếng đàn guitar, một giọng hát trầm ấm cất lên nho nhỏ:
“Sầu mà chi em, lúc non sông cần trai hùng, buồn mà chi em, mai anh về trong
nắng êm…” Chúng tôi lặng lẽ nghe, tiếng hát chấm dứt, “bên kia” hỏi: “Muốn nghe
tiếp bài gì?”; “Bài gì cũng được, bộ cũng rớt hả?”; “Rớt, nhưng sẽ vô Luật, có
gì năm sau vô lính.”, “Đi lính gì?”, “Lính gì thì cũng ra chiến trường! ... Trả
lại em yêu, khung trời mùa Hạ, ngọn đèn hiu hiu nỗi buồn cư xá, vài giọt mưa sa
hôn mềm trên má, tóc em thơm nồng, dáng em hiền hòa… Anh sẽ ra đi về miền cát
trắng, nơi có quê hương mịt mù thuốc súng, Anh sẽ ra đi về miền mênh mông, cơn
gió cao nguyên, từng đêm lạnh lùng…“Thôi, đừng hát nữa, buồn lắm!”, “Ừ!”
Đêm hôm ấy, chúng tôi không ngủ được,
vì buồn, tương lai trở nên khó khăn hơn, những dự tính tìm nghề lót đường đã
mất, bây giờ chỉ còn một chọn lựa là phải học SPCN và phải thi đậu vào Y khoa.
Chúng tôi cũng nghĩ đến những ngành học khác như Sư phạm, Luật, Văn khoa, nhưng
vì đã quá chú trọng đến Y, Nha, Dược nên không còn tâm trí đâu mà tìm hiểu thêm
và xem kỹ lại khả năng đích thực của mình.
Giữa khuya, “bên kia” thì thào: “Ngủ
chưa?”, “Sắp!”, “Nói chuyện được không?”, “Không” , “Sao vậy?”, “Sắp ngủ”, “Thì
nói tới khi nào ngủ”, “Muốn nói gì?”,“Rớt rồi, tính học ngành gì?”,“SPCN, rồi
vô Y”,“Hăng quá há? Sao không học sư phạm, văn khoa cho nhẹ nhàng… Sao im vậy…
ngủ rồi hả? Không muốn nói chuyện hả? … Thôi, ngủ đi, con gái không cần phải lo
nhiều!”
“Bên kia” bắt đầu đàn và hát thật nhỏ:
“Gửi tới em! gửi tới em! gửi tới em! một hạt mưa lẻ loi, một hạt mưa trong đêm
tối, mưa bay dài... Gửi tới em! gửi tới em! gửi tới em! hơi thở này nồng nàn, ta
yêu nhau đắm say… Em có nghe xào xạc? tiếng lá bay xào xạc, tiếng gió đêm buồn
lang thang trên muôn vàn đỉnh cây, hạnh phúc nào không tả tơi không đắng cay?
Giọng hát đơn sơ, thê thiết khiến nước
mắt tôi tràn ướt gối. “Ngủ chưa?”. “Sao chọn toàn bài buồn vậy?”. “Dưới tỉnh
mới lên hả?”. “Đà Nẵng”. “A! miền Trung!.. nơi có nhiều biến động… Tên gì
vậy?…nói cho biết để dễ gọi”. “Đã biết tên hai chị chưa?”. “A, như vậy là vai
em hả?... chưa biết tên hai chị, có nghe gọi thôi”. Tôi nghe giọng “bên kia” có
chút cười, chút diễu, nên im thin thít. “Bên kia” im lặng một lúc, rồi nói nhỏ:
“Ngủ đi, mai gặp”
Chị Ngàn bấm tay tôi, nói thật nhỏ:
“Bọn con trai rớt thì tội, vì phải đi lính, tay này chắc đang buồn và lo nên
hôm nay hơi dai dẳng, thôi ngủ, mai dậy sớm, còn cả chậu quần áo phải thanh
toán!”
Thoáng chốc, tôi nghe tiếng thở đều
đều của hai chị. Tôi vẫn khó ngủ vì còn lạ chỗ, hôm nay lại thêm chuyện thi
rớt, nên trằn trọc suốt đêm. Tôi nhớ Bố Mẹ và các em, nhớ các bạn, tự nhiên tôi
mong tin của các bạn trai cùng lớp ở trường Phan chu Trinh Đà Nẵng. Ba năm đệ
nhị cấp, nam nữ học chung, nhưng tôi ít nói chuyện với các bạn trai, và cũng
không quan tâm đến việc nếu thi rớt, các bạn sẽ phải đi lính. Tôi ở Đà Nẵng,
nơi được mệnh danh là địa đầu giới tuyến, thuộc vùng I chiến thuật, gần sát
Huế, nơi bị thiệt hại nhiều nhất trong trận tổng công kích của Việt Cộng năm
Mậu Thân 68. Chiến tranh ở đây được nhìn thấy rõ hơn so với tại Saigòn, vậy mà
tôi không hề nghĩ đến một ngày nào đó, các bạn trai cùng lớp sẽ là những người lính.
Tôi cố nghe tiếng động bên kia tường,
nhưng đêm khuya thật yên ắng, chỉ thỉnh thoảng có tiếng thạch sùng tặc lưỡi
trên trần nhà. Tôi nghĩ đến câu chuyện lúc nãy, chưa bao giờ tôi nói chuyện với
một người con trai “bạo mồm, bạo miệng” và “ông cụ non” như hắn. Tôi cũng chưa
hề nghe các bạn gái kể những sự tích làm quen kiểu … liều mạng như hắn. Tôi lo
sợ vẩn vơ vì hắn nói: mai gặp! Hắn sẽ gặp mình? bằng cách nào, ở đâu, để làm
gì?
.
Sáng hôm sau, tôi không dám ra khỏi
nhà, vì sợ gặp hắn. Suốt ngày không dám nói to, cuời to sợ hắn nghe. Thời gian
từ khi rớt thi tuyển đến lúc nhập học đại học Khoa Học, sao mà lâu lắc! Mỗi
ngày chị em chúng tôi chia nhau làm việc nhà, đi chợ, nấu cơm, quét nhà, giặt
giũ, vừa làm vừa đùa giỡn, nhưng tôi vẫn bồn chồn.
Nhà chật lại đông người, nên chỉ một
cái hắt hơi, dù được kềm giữ, âm thanh cũng cứ như được cộng hưởng vang lên
chát chúa. Tôi không muốn “bên kia” biết sinh hoạt thường ngày của mình để…bấm
giờ hò hẹn.
Ở nhà hai hôm, tôi đã cuồng chân, phải
ra ngoài, phải sống bình thường, tôi tự trách: tại sao phải sợ hắn chứ? Hắn hẹn
gặp, mình không muốn thì thôi, có gì phải sợ? Hắn hỏi, mình không trả lời, thì
đã sao? Tại sao hắn có quyền “hẹn”, mình lại không có quyền “từ chối”?
Nghĩ thế, nhưng tôi vẫn cẩn thận, chọn
giờ buổi trưa để đi, tôi nghĩ đây là khoảng thời gian mọi người, trong đó có
hắn, nếu có công việc, thì đã đi từ sớm. Tôi mở cổng và đi bộ nhanh ra ngõ, may
sao một chiếc xe lam vừa ngừng đón khách, tôi lên ngay, xe trực chỉ hướng chợ
ôngTạ, lúc đó, tôi mới quyết định đến thăm gia đình chú tôi.
Cuộc thăm viếng không định trước nên
chỉ có thím tôi ở nhà, chúng tôi nói đủ mọi chuyện. Bình thường chuyện vãn kiểu
này tôi dư sức kéo được vài tiếng. Nhưng lần này, tâm tư tôi xốn xang bấn loạn,
vừa đến, tôi đã muốn về, nhưng rồi lại tự trấn tĩnh: về làm gì, nhỡ hắn đợi
ngay ngoài ngõ thì phiền. Tôi có cảm giác lúc thì muốn tránh hắn, lúc thì lại
muốn gặp. Tôi đã sửa soạn kỹ, nếu vô tình gặp hắn, tôi sẽ đứng lại, nhìn vào
mắt hắn và nói chuyện tỉnh bơ, hoặc nếu… sợ quá, thì nói cám ơn, rồi đi thẳng
vào nhà, chẳng có gì phải lo cả!
Thế nhưng buổi chiều trở về, chiếc xe
lam vừa ngừng trước ngõ, tôi bước xuống, xém dẫm lên vạt áo dài, hấp tấp đi
nhanh vào ngõ và gọi cổng thật khẽ, tim tôi tự dưng đập vội, như sắp bị lọan
nhịp.Thời gian chờ mở cổng, chỉ khoảng một hai phút, nhưng với tôi nó dài hàng
thế kỷ, vì bất cứ lúc nào, hắn cũng có thể xuất hiện ngay cạnh tôi.
.
Nhưng cả tuần lễ, hắn không gặp tôi
như đã hẹn, mà cũng không “bắt chuyện” như mọi khi. Chị em chúng tôi, tuy chẳng
ai nói với ai, nhưng đều như mong đợi. Chỉ một tiếng động nhẹ ở tường bên kia,
chúng tôi đều hướng mắt về phía đó, chờ đợi, mong tin. Thật lâu, chẳng có gì
ngoài tiếng dép lẹp kẹp của bà Cụ bên đó và tiếng Cụ húng hắng ho.
Ba chị em chúng tôi chưa bao giờ có
cảm giác… bị cho leo cây và … phải chờ đợi lâu như thế này, nhưng lại không thể
nói ra hay trách móc bất kỳ ai. Chúng tôi uể oải thấy rõ, mỗi buổi sáng xách
giỏ đi chợ, cứ ngẩn ngơ không biết mua gì, chúng tôi đùn đẩy cho nhau đi chợ,
chọn ở nhà lau nhà, dọn dẹp, giặt giũ, nhưng ước mong sâu kín là được chờ tiếng
nói quen thuộc của “bên kia”. Chờ mãi, chị Hiển quyết định phá bầu không khí
thinh lặng:
-Hình như anh chàng bên kia đi đâu,
không có ở nhà.
Chị Ngàn và tôi lập tức hưởng ứng:
-Ừ, hình như hắn đi vắng!
-Chưa nhập học, có thể hắn đi nghỉ hè
đâu đó. Tôi băn khoăn.
-Nhưng suốt mấy năm ở đây, không thấy
hắn có bạn, hay đi đâu cả, chỉ có hai bà cháu.
Tôi hỏi:
-Vậy ba mẹ của hắn không ở đây hả?
-Không, hình như bà Cụ nói với Mợ (ở
nhà, chúng tôi thường gọi Bố Mẹ bằng Cậu Mợ) là ba mẹ hắn ở Blao, ba hắn đi
lính ở đó.
-Có thể hắn về thăm gia đình, vì tuần
sau nhập học rồi.
-Có thể lắm!
Thế là tôi biết thêm một chút về hắn
và tự yên tâm với giải pháp là hắn đi thăm gia đình ở Blao.
Những ngày tiếp theo dài lê thê, mỗi
ngày sau bữa cơm tối, dọn dẹp rửa bát lau nhà xong xuôi, chúng tôi rút vào
phòng… bàn về hắn. Hai chị không biết hắn tên gì, chỉ biết hắn học cùng năm,
thỉnh thoảng khơi khơi góp chuyện, rồi lại khơi khơi “tắt ngúm” một thời gian,
nhưng vẫn ở nhà, chỉ có lần này là … mất tích! Tôi có thấp thoáng có thấy hắn
một lần, hắn cao gầy, ngăm ngăm, tóc húi cao, dáng vẻ cũng giống các bạn trai
trong lớp tôi ở trường Phan chu Trinh. Mỗi ngày tôi nghĩ về hắn nhiều hơn, đã
có lúc tôi ước ao … thà gặp hắn … rồi ra sao thì ra, còn hơn để hắn tự động
“tắt điện” kiểu này.
Trưa thứ bảy, đúng hai tuần lễ hắn
biệt dạng, chị Hoa sang chơi, chị cũng thuộc hàng… ăn to nói lớn, vừa đập
cổng,vừa gọi:
-Mở cổng đi, Hoa đây!
Chúng tôi lật đật chạy ra, chưa kịp mở
cổng, chị đã đập cửa loạn xạ và gọi tiếp:
-Con Hương có nhà không? mở cổng cho
chị.
Tôi hấp tấp mở then cài cổng, chị Hoa
ập vào, toét miệng:
-Mày không đi chơi đâu à, đi thăm
Saigòn với tao, tao chở đi.
Tôi vừa ra dấu cho chị nói nhỏ, vừa
đưa tay chỉ qua nhà bên cạnh, chị trợn mắt nhìn tôi:
-Hả, cái gì, nói nhỏ ấy hả? Sợ cái
thằng bên đấy nó nghe hả? Chị Ngàn nói nó biệt tích giang hồ rồi mà.
Tôi lôi chị Hoa vào nhà, cài cổng và
nói vào tai chị ấy:
-Nhưng nhỡ nó về rồi thì sao? Hôm nọ
nó hỏi tên em, em không nói, bây giờ chị bô bô, nó biết.
Chị Hoa cười toét, và tiếp tục nói to:
-Giời ơi, tên với tuổi, người ta muốn
biết thì cứ cho người ta biết, có gì đâu mà giấu với giếm! Đấy, tao nói đấy,
cái đứa mới từ Đà Nẵng vào tên là Hương, nó là em chúng tôi, ai có muốn hỏi gì
thì hỏi tôi đây này!
Chị Hiển và Ngàn kéo Hoa vào phòng và
lạy như tế sao:
-Hoa ơi, bé bé cái mồm dùm, Cậu mà
biết thì chúng tớ chết, may là hôm nay “nó” không có ở nhà, chứ không thì tụi
này chắc đi đầu xuống đất!
Chị Hoa vớt vát: “Sợ quái gì.”, sau đó
chị rủ chúng tôi đi phố, ghé hẻm Eden ăn bún ốc. Từ ngày vào Saigòn đến nay,
tôi được các chị cho đi ăn đủ món lạ mà Đà Nẵng không có, như lòng heo xâu
ghim, nước mía Pasteur, bò bía… kế đó là bát phố. Hình ảnh áo dài trắng quần
trắng của Đà Nẵng đã nhanh chóng đi vào quá khứ. Tôi hòa nhập vào nhịp sống của
Saigòn. Nữ sinh Saigòn mặc áo dài trắng hay áo dài màu, nhưng luôn luôn với
chiếc quần đen, đã khiến người thiếu nữ như nền nã hơn, kín đáo hơn, đằm thắm
hơn, phong thái cũng tự tin hơn. Bốn chị em với hai chiếc xe Honda Dame ra khỏi
ngõ, phom phom trực chỉ về phía cầu Trương Minh Giảng, qua thư viện Đắc Lộ,
chúng tôi đi vào vùng “thượng lưu” của khu Tú Xương, Trần quý Cáp. Hàng cây hai
bên đường hình như là me, lá nhỏ, xanh non, ngọn của chúng đan vào nhau, khiến
đoạn đường này lúc nào cũng mát rượi.
Phố Saigòn chiều thứ bảy đông nghẹt,
đường Lê Lợi, Lê Thánh Tôn, Tự Do dập dìu người là người. Chúng tôi gửi xe bên
Rex, nhìn qua bên kia đường, quán bún ốc cạnh Passage Eden đông nghẹt. Chúng
tôi nắm tay nhau chạy băng qua đường, chen vào quán, kiếm những chiếc ghế đẩu
thấp, nhưng không còn chiếc ghế trống nào. Đành phải đứng chờ, mùi bún ốc thơm
phức với gừng, mắm tôm, kinh giới, khiến chúng tôi thèm quá, nên khi có ghế
ngồi, mỗi đưá kêu hai tô cho tiện.
No bụng bắt đầu dạo phố, trời Saigòn
lúc nào cũng đẹp, ngay cả những ngày mưa, mây xám kéo về, giăng một màn nước
mỏng, rồi vội vã kéo đi khiến làn nước hụt hẫng rơi tơi tả. Trời lại sáng. Cuối
thu của Saigòn không mát lạnh như Đà Nẵng. Saigòn không cần áo len như Đà Nẵng.
Cả bọn băng qua đường Nguyễn Huệ, lẫn vào đám đông lượn lờ cho đến tối.
Tối ấy, chị Hoa xin Bác Thinh cho ngủ
lại. Chúng tôi rút vào phòng, chưa kịp ngồi, đã nghe tiếng “bên kia”: “Người từ
Đà Nẵng tên Hương phải không… cảm ơn chị … gì đó..”
Chúng tôi há hốc mồm nhìn nhau, chết
rồi, hắn về rồi, hắn ở nhà cả ngày hôm nay. Tôi nghiến răng cấu chị Hoa thật
đau, chị ấy la oai oái:
-Ơ hay, tại sao lại cấu tao, nó muốn
biết tên mày, mày không nói, thì tao nói. Này, bên đấy ơi, nó cấu chị đau quá
đây này! Bắt đền đấy!
Hai chị Hiển và Ngàn bịt miệng chị Hoa
không kịp, bèn ngồi trên giường vừa tức, vừa nén cười, còn tôi thì chỉ muốn độn
thổ! Tự nhiên nước mắt tôi chảy dài, tức ơi là tức. Tôi vùng vằng leo lên ngồi
ở góc giường. Chị Hoa tiu nghỉu, nói nhỏ:
-Thôi tao về.
Chị Ngàn giữ lại:
-Hoa ở lại đi, không sao đâu.
Từ đó, đến khuya, “bên kia” im bặt.
Các chị nói chuyện rôm rả, đôi lúc chị Ngàn cố nói to để bên kia bắt chuyện,
nhưng tuyệt nhiên không một lời đáp. Tôi vẫn còn tức, nên nằm chèo kheo quay
mặt vào tường, ôm gối, cố dỗ giấc ngủ.
Thời gian trôi lúc nhanh lúc chậm,
chúng tôi ghi danh học chứng chỉ SPCN bên đại học Khoa học và đã nhập học được
vài tháng. Môi trường học và các môn học đều mới, chúng tôi thường phải đi thật
sớm để dành chỗ ở giảng đường. Thức khuya dậy sớm, dùi mài kinh sử, giờ học
thất thường không đều đặn như ở Trung học; ăn uống cũng lúc có lúc không, nên
cả bọn gầy như cò ma. Bận rộn chuyện học, chúng tôi và hắn cũng ít chuyện vặt.
Thỉnh thoảng hắn đàn hát một mình, bên này lắng nghe, và cũng chỉ nói: “Hát bài
này buồn quá!”. “Chiến chinh mà, vui sao được?”. Sau đó, tất cả lại nín thinh!
.
Một hôm, tôi vừa dắt xe ra cổng, hắn
đã đứng sẵn ở đầu ngõ, tôi không thể trở vào, đành lên xe nổ máy, nhìn thẳng và
lái ra đến đầu ngõ. Hắn gọi:
-Hương, Trung muốn nói chuyện, mình đi
La Pagode nghe!
Không hiểu sao lúc ấy, tôi dừng xe
lại, không nhìn hắn, nhưng gật đầu và còn nói:
-Tui không biết chỗ nớ!
Ngần ngừ một lúc hắn đề nghị:
-Hương cất xe vô nhà đi, Trung chở.
Tôi lại gật đầu, líu ríu dắt xe vào
nhà, và nói với Bác gái: “Cháu đi xe lam cho tiện!”
Tôi đi bộ ra ngõ, bất chợt thấy ánh
mắt hắn đăm đăm nhìn tôi, tôi bỗng cuống quýt, bước hụt, sắp vấp ngã. Đến bên
hắn, tôi nghe tiếng nói nhỏ:
-Hương lên xe đi, nhớ ôm chặt kẻo té!
Tôi vừa vén tà áo dài ngồi lên yên
sau, chiếc Lambretta chồm lên và vút đi, tôi hoảng hốt nắm chặt bìa ghế. Lúc
đó, tôi mới thấy mình liều, sợ lỡ gặp bà con hay các chị, tôi dúi sát mặt vào
lưng hắn, nghe rõ nhịp tim đập và ngửi được mùi mồ hôi vừa như lạ vừa như quen.
Quán La Pagode buổi sáng vắng vẻ, chỉ
có vài ba người, họ có vẻ như chăm chú nhìn người đi đường hơn là thưởng thức
café. Lần đầu tiên tôi vào quán này, cảm thấy nhột nhạt vì những con mắt chung
quanh. Hắn nắm tay tôi đến một bàn khuất phiá trong và gọi hai ly mocha nóng.
Hắn xoay xoay ly café, ngẩng nhìn tôi:
-Hương dễ thương ghê.
-Rứa hả?
-Rứa là sao?
-Là …rứa đó!
-Chữ “rứa hả”, thay cho chữ gì?
-Chữ “vậy hả”
-Vậy Hương có biết Hương dễ thương
không?
-Không.
-Vậy bây giờ biết chưa?
-Chưa!
-Sao vậy? Trung mới nói đó.
-Vì tui không tin người lạ.
-Trung là người quen mà?
-Mấy người là hàng xóm của Bác tui,
tui biết chớ không quen, nên chi vẫn là người lạ!
-Hương nói chuyện cũng ngộ nữa.
- Rứa hả?
-Chữ “rứa hả” cũng dễ thương nữa.
-Nhiều chiện!
Trung nhìn tôi đăm đăm và cười thích
thú.
Trong khi đó, tôi cũng cố dò xem hắn
ta ra sao? Hừm! Hắn cũng …đơn giản, không có vẻ se sua, làm dáng, hắn có giọng
nói người miền Nam, ấm áp và đôi mắt thật sáng.
-Hương uống đi
-Tui không quen uống thứ ni.
-Là sao?
-Là rứa đó, tui không thích mocha
-Hương thích gì?
-Nước lạnh
-Saigòn chứ đâu phải Đà Nẵng.
-Đà Nẵng cũng có các thứ in chang ở
đây, nhưng tui không thích vậy thôi.
-Chà, cũng khó dữ
Tôi nhìn hắn:
-Tui muốn đi về.
-Khoan, Trung muốn nói chuyện với
Hương một chút.
-Thì nói … qua tường được rồi!
-Trời ơi, đó là bức tường Bá Linh, đâu
phải nói gì cũng được.
Tôi thấy mắc cười, nên nói:
-Răng lại là bức tường Bá Linh?
-Răng là sao?
-Là tại sao lại kêu là tường Bá Linh?
-Thì bức tường giữa hai nhà, bên này
muốn qua bên kia nhưng không được, vì bên kia né hoài, bên này phải tìm cách
vượt ra ngoài ngõ đặng gặp bên kia!
Tự nhiên tôi và hắn cùng cười thoải
mái. Hắn hỏi:
-Ủa, sao Hương giọng Bắc mà lại có mấy
cái chữ Rứa, Răng là sao vậy?
-Tại tui ở Đà Nẵng từ hồi nhỏ nên thấm
tiếng Quảng địa phương.
-Nhưng nghe dễ thương ghê!
-Nhiều chiện!
Trung nhìn tôi một hồi rồi nói:
-Hương, Trung không vào đại học, Trung
đi lính!
….
-Trung chỉ muốn nói với Hương
-Tui với anh chưa quen biết chi hết,
mắc chi anh nói với tui.
-Đầu cần quen, miễn sao mình cảm thấy
bình an khi nghĩ về nhau là được.
-Không quen không biết làm răng mà
nghĩ?
-Thì qua bức tường Bá Linh, tụi mình
đã quen và bây giờ ngồi đây là đã biết!
Tôi giật mình vì cái lém lỉnh đột ngột
của hắn, tôi xoay chiều câu chuyện:
-Răng… không tiếp tục học thử xem,
phải cố gắng chứ!
-Tại sao phải vào đại học chứ? Trung
không muốn trốn lính kiểu đó.
-Trốn lính? Tại răng lại nghĩ như rứa?
- Đúng vậy, những năm qua, bọn này phải
học chết bỏ, để được đậu, để khỏi đi lính. Trung thấy vô nghĩa quá, làm như đi
lính là tệ lắm vậy?
Trung nhìn sâu vào mắt tôi nói tiếp:
-Trung không chán học đâu, nhưng Trung
muốn mọi người đừng nói “phải đi lính” nữa, mà hãy xem đi lính cũng là một trong
những lựa chọn, như chọn ngành học ở đại học vậy, thậm chí phải hãnh diện nếu
đi lính, vì đó là trách nhiệm của thanh niên thời chiến.
….
-Hương nói gì đi, Hương có tin Trung
không?
Tôi gật đầu và chùi nước mắt thật
nhanh. Những gì Trung nói, thật mới mẻ, thật đẹp, và thật lý tưởng đối với tôi,
khiến tôi xúc động. Tôi nghĩ rằng, qua bức tường “Bá Linh”, nghe Trung nghêu
ngao hát về thân phận tuổi trẻ thời chiến, về những người lính, tôi đã hiểu
được phần nào tâm tình của Trung. Bây giờ qua cách nói chuyện tự nhiên và ánh
mắt trìu mến đặc biệt, dù chỉ mới thực sự quen nhau có hơn vài tiếng đồng hồ,
tôi cảm thấy như thân thiết với Trung từ lâu.
Trung nắm nhẹ tay tôi:
-Hương nói gì đi
-Tại sao lại chọn tui để nói chuyện
này?
-Tại nghe Hương nói cười riết ở bên
nhà, Trung thèm được sống trong những âm thanh đó.
-Tui sắp vào nội trú rồi.
-Không ở với bác nữa hả?
-Vì bên nội trú có chỗ rồi!
-Thanh Quan hả?
-Regina Pacis
-Ở với các Soeurs thì Trung yên tâm
hơn. Bao giờ Hương đi?
-Tuần sau
-Trung chở đi nhe
-Không, bác và hai chị biết thì tui
chết.
-Vậy thôi.
Hôm đó tôi về nhà hơi trễ, viện cớ
đường kẹt xe và xe lam đông khách quá. Đêm đó, Trung không bắt chuyện, cũng
không đàn hát cho đến khuya mới nói nhỏ bên tường: “Ngủ ngon!” Cả ba chị em
đang học bài, giật mình lắng nghe tiếp, nhưng không gian rơi vào yên lặng như
cũ.
.
Chỉ còn vài tuần nữa là đến Noel, tôi
dọn vào Regina Pacis. Từ Đà Nẵng vào Saigòn, tôi chỉ có hai cái valises, thế mà
vài tháng sau, không hiểu đồ đạc ở đâu mà lắm thế. Hai valises đầy ắp quần áo
sách vở, thêm ba bốn thùng sách khác và hai túi vải đeo oằn cả vai. Tôi chuyển
hành lý lên Taxi và đi cùng với hai chị đến Regina Pacis. Chúng tôi vào phòng
khách chờ Soeur trông coi khu nội trú ra nhận “gà”.
Khoảng 10 phút sau, một Soeur người
hơi thấp, khoảng 50 tuổi, nét mặt thật hiền, bước vào phòng khách dáo dác nhìn,
và tiến về phiá chúng tôi. Soeur tự giới thiệu Soeur tên là Aimé, coi khu nội
trú của sinh viên. Chúng tôi cùng đứng lên cúi đầu chào. Soeur Aimé nhìn tôi và
chiếu xéo qua đống hành lý lỉnh kỉnh của tôi, rồi cười nửa miệng và nhắn nhủ:
“Con phải học cho thuộc nội quy của khu nội trú, không được ra ngoài sau 7 giờ
tối, không được ăn uống trong phòng ngủ, không được làm ồn sau 9 giờ tối, không
được tắm sau 9 giờ tối, chỉ được tiếp khách người nhà vào cuối tuần, vân vân và
vân vân. Trời ơi, Soeur khủng bố tinh thần quá, tôi nhìn hai chị, hai chị nhìn
tôi, chúng tôi vụt cúi mặt xuống, cắn răng dấu những tiếng cười nghịch ngợm.
.
Gia nhập gia đình nội trú chưa được
bao lâu, tôi đã được Soeur Aimé chiếu cố vì nhiều “tội danh” liên quan đến câu
nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò, trong đó có tội cầm đầu nhóm bạn dòm lén ổ
khoá xem Soeur có gì khác mình!
Trước Giáng Sinh, phố xá đông đúc, mọi
người bận rộn mua sắm, thì giảng đường ngày càng vắng vẻ, vì một số sinh viên
về quê sớm để mừng Giáng Sinh và ăn Tết với gia đình. Tôi cũng nhớ nhà và đã
mua vé máy bay về Đà Nẵng.
Từ ngày dọn vào nội trú, tôi gặp Trung
thường xuyên hơn, Trung đã ghi danh ở Luật, nhưng vẫn nhấp nhổm muốn ghi tên đi
Thủ Đức. Đây là đề tài gây phiền toái. Gặp nhau, chúng tôi nói đủ thứ chuyện,
chuyện học, chuyện bạn, chuyện đời sống, nhưng khi đến vấn đề ghi tên vào
trường Thủ Đức, tôi im lặng, trong khi Trung muốn tôi có ý kiến. Làm sao tôi có
ý kiến được, khi tôi chỉ mới có cảm tình với Trung, và bị giằng co trước trách
nhiệm thiêng liêng với những rủi ro ở chiến trường. Vì thế, gặp nhau thì vui,
nhưng lúc chia tay thì buồn.
.
Tôi về thăm nhà lần đầu tiên, gặp lại
các em, tôi mới thấy mình… từng trải. Hình như chỉ ở Đà Nẵng, người ta mới có
được nét đẹp thuần thục và thơ ngây. Các em rủ tôi leo lên cây trứng cá trước
nhà, quả chín đỏ ối mời mọc, nhưng tôi từ chối. Tôi không còn bầu bạn với các
em, tôi đã lớn, tôi đã biết buồn vì ai đó hễ thi rớt thì đi lính, biết đến
chiến trường, biết nhớ và hiểu những ánh mắt buỗn thẫm mỗi khi chia tay. Chỉ có
hai tuần ở nhà, mà tôi bồn chồn đi ra đi vào, chỉ muốn trở lại Saigòn. Mẹ tôi
đoán có lẽ tôi lo cho kỳ thi tới, nên an ủi: “Con đừng lo quá thế, không đậu
năm nay thì sang năm, có phải như con trai đâu mà sợ phải đi lính”. Tôi không
lo cho tôi, tôi lo cho người khác, chiến trường hồi xưa xa tít, bây giờ đang ở
rất gần, cạnh tôi và người ta.
Qua Tết, tôi trở vào Saigòn. Từ phi
trường Tân Sơn Nhất, tôi đón Taxi về Regina Pacis. Đến cổng, tôi đã thấyTrung
đứng chờ bên vệ đường. Tim tôi đập thình thịch, Trung ôm tôi, hôn vào trán tôi
thật lâu. Tôi vào cất valise lên phòng và xin phép Soeur Aimé đi ra ngoài ăn
tối với “ông anh bà con”!
Chúng tôi ăn cơm canh giò với rau thì
là ở đường Gia long và đi ciné. Phim Love story mới phát hành đã được trình
chiếu tại Saigòn. Phim đẹp nhưng buồn ơi là buồn. Hình ảnh cuối của phim với
cảnh đôi tình nhân nằm bên nhau trên giường bệnh, chàng trai ôm người tình, để
cô ấy chết trong vòng tay che chở ấm áp của mình, đã khiến tôi sướt mướt, nức
nở. Dư âm của bản nhạc nền “Where do I begin” với tiếng hát ấm của Andy
Williams đã theo tôi suốt trên đường về nhà. Trung kéo tay tôi vòng qua eo
mình, và nắm chặt tay tôi, xe chạy chầm chậm như muốn con đường về nhà dài ra.
Đến cổng khu nội trú, Trung tắt máy xe, chúng tôi còn tay trong tay thêm một
lúc nữa, Trung hỏi:
-Phim hay không?
-Hay ghê, họ yêu nhau thắm thiết quá!
Trung nhìn vào mắt tôi:
-Mình yêu nhau nhiều hơn thế nữa…
Mắt tôi lại sũng ướt,Trung ôm và hôn
tôi thật lâu trên trán, rồi nói:
-Em vào đi và nhớ ngủ sớm.
Năm ấy, khoá đầu của SPCN, tôi bị rớt
môn địa chất. Vài tháng sau, thi lại, đủ điểm đậu. Nhưng tôi bị hụt kỳ thi
tuyển vào Y khoa Saigòn, nên ở lại học tà tà chứng chỉ về Sinh lý thực vật, chờ
năm sau thi lại. Chị Hiển cũng bị rớt khoá đầu như tôi, sau đó thi vào Sư Phạm.
Chị Ngàn đậu đợt đầu SPCN, và đậu kỳ thi tuyển vào Y Khoa.
Cuộc đời chúng tôi từ từ được định rõ.
Vì không còn học chung trường, nên tôi cũng ít gặp hai chị, thỉnh thoảng cuối
tuần tôi về thăm hai Bác và ăn cơm, chúng tôi mới có lại những giây phút cười
đùa vui tươi như trước. Hai chị cũng nhắc đến tên “bên kia” không biết hắn ta
học cái gì, đậu rớt ra sao? Tôi chỉ ậm ừ cho qua câu chuyện.
Trung rớt Luật, và đã vào quân trường
Thủ Đức. Chúng tôi không còn gặp nhau nhiều như trước nữa. Tôi lo học để thi
vào Y khoa năm tới. Lần về phép đầu tiên, Trung ghé thăm tôi, Trung đen và
chững chạc hơn nhiều. Cuối tuần đó thật thần tiên và nhàn hạ. Thứ bảy chúng tôi
đi dạo phố, đi ăn, đi uống café. Chủ nhật, Trung đến ngồi với tôi tại phòng
khách của Regina Pacis từ sớm. Trung kể chuyện tuần lễ đầu tiên ở quân
trường:những kỷ luật đối với tân binh, ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, bãi tập, tuần lễ
Huấn nhục… và những nôn nao khi được về phép.
Tôi kể chuyện học, chuyện gia đình
ngoài Đà Nẵng, chuyện nội trú. Đến khoảng 3 giờ chiều, những chiếc xe GMC đón
các sinh viên sĩ quan Thủ Đức về lại quân trường, đậu trên đường Tú Xương, ngay
trước cổng Regina Pacis. Trung ngồi với tôi đến phút cuối cùng, khi mọi người
đã lên xe. Trung ôm tôi và hôn lên trán tôi.
Những lần về phép sau, chúng tôi cũng
chia nhau những hạnh phúc in như vậy. Khi chia tay, Trung hôn lên trán tôi, mỗi
lần mỗi lâu hơn, tôi quen dần và không nghĩ đến những cảnh hôn môi lãng mạn
trong phim ảnh.
Dường như chúng tôi yêu nhau, nhưng
chưa nói gì với nhau, chỉ có một lần Trung hỏi tôi là có tin Trung không. Chỉ
có Trung đoan chắc là Trung yêu tôi và nói là mình yêu nhau nhiều hơn thế
nữa... Tôi tự hỏi tin và yêu khác nhau thế nào? Điều Trung đoan chắc đó, đã có
trong tôi chưa? Tôi không giải thích được, chỉ biết rằng, tôi thật bình yên và
an toàn những lúc ở bên Trung.
Lại đến mùa thi, tôi phải vất vả lắm
mới xong được cái chứng chỉ Sinh lý Thực vật, tôi ghi tên thi tuyển vào Y khoa,
nhưng rớt. Hôm đi coi bảng, không có tên mình, tôi đã bật khóc, vì nghĩ đến ước
mong của Bố tôi. Tôi đánh điện tín về nhà, báo tin không đậu vào Y khoa. Bố tôi
đã vào Saigòn an ủi tôi, khuyên tôi không nên thất vọng, nếu tôi vẫn còn muốn
học Y, thì vẫn còn nhiều cơ hội. Nếu tôi muốn học ngay năm nay, thì có trường Y
Khoa Minh Đức, tuy là trường tư, nhưng cũng dạy đúng tiêu chuẩn quốc tế. Tôi
nhìn Bố nghẹn ngào: “Dạ, con sẽ ghi danh vào Minh Đức.” Tôi ghi danh học Y khoa
Minh Đức, và học tiếp ở Khoa học cho xong văn bằng cử nhân.
Một buổi sáng từ giảng đường đại học
Khoa Học nhìn ra, tôi bất ngờ thấy Trung đi tới đi lui dáo dác nhìn vào giảng
đường kiếm tìm. Tôi đi ra, chạy về phía Trung hấp tấp hỏi:
-Trung đi đâu vậy? Sao lại được về
phép hôm nay?
Trung nói:
-Anh tìm Hương, lần này là lần phép
cuối, bọn anh ra trường chọn đơn vị và đi luôn.
Tôi bỏ hết các giờ học còn lại để đi
chơi với Trung. Chúng tôi đi ra đường Pasteur ăn đu đủ bò khô, uống nước mía,
đi tới Crystal Palace ăn bò bía, vào nhà sách Khai Trí, mỗi đứa mỗi vùng chọn
sách đọc đã đời, sau đó dắt nhau vào ciné.
Hôm ấy chúng tôi xem Summer of 42, nói
về tình yêu của một thiếu niên với người thiếu phụ trẻ có chồng mất tích trong
thế chiến thứ 2. Tôi không thích nội dung phim, nhưng bản nhạc nền chính của
phim thì tuyệt diệu.
Ra khỏi rạp, trời mới chiều, chúng tôi
ghé quán kem dừa ở hồ con Rùa gần trường Luật, vừa ăn kem vừa bàn về chuyện
phim. Trung hỏi tôi:
-Em thích Summer of 42 không?
Tôi nhún vai, Trung nhìn tôi và nói:
-Hai vợ chồng trẻ yêu nhau trước khi
người chồng vào chiến trận. Cậu thiếu niên yêu người thiếu phụ, tình yêu đầu
đời của cậu ta… tất cả họ đều yêu thiết tha và… mình thì yêu nhau nhiều hơn thế
nữa, phải không?
Tôi rùng mình nhìn Trung, tôi thấy
mình nằm gọn trong đôi mắt thăm thẳm, Trung đã ủ tôi trong anh, như anh đã từng
có tôi từ bao nhiêu kiếp. Lần thăm này, lúc chia tay, Trung ôm tôi, anh hôn
trán tôi, hôn môi tôi lần đầu tiên, chúng tôi đã hôn nhau đắm đuối. Trung hẹn
khi ra đơn vị, sẽ về thăm tôi. Tôi không biết Trung ra đơn vị nào, phục vụ ở
đâu. Tôi chờ đợi, chờ đợi mãi không thấy Trung về thăm, cho đến một ngày tôi
ghé thăm Bác tôi, mới hay là cháu bà cụ bên cạnh nhà đã hy sinh. Tôi chạy sang
hỏi bà, bà nói không biết gì ngoài tin Trung đã tử trận. Tôi chào bà, bước vội
ra cửa, chợt nghe tiếng bà yếu ớt hỏi với theo: “Cháu, cháu có phải là bạn
thằng Trung không, cháu ơi?” Tôi chết đứng, quay lại nhìn bà, mắt đỏ hoe. Bà
chống gậy đi đến bên tôi, mái tóc bạc gục vào ngực tôi. Chúng tôi nức nở nhớ
Trung. Tôi khóc Trung muộn màng và hiểu được thế nào là …mình yêu nhau nhiều
hơn thế nữa!.
.
Tác giả: Phạm Diễm Hương
.
.
(Nguồn: sưu tầm)