.

(Nguồn: Internet)
.
Những Hiểu Lầm về Đạo Phật
.
Tác giả: Sư Ôn Minh Đức Triều Tâm Ảnh.
.
Đạo Phật ngày càng suy
đồi, tha hoá, “mạt pháp”, nguyên nhân thì nhiều, nhưng đôi khi vì trong giới tu
sĩ và cư sĩ không trang bị đủ kiến thức của giáo pháp như thực - tức là giáo
pháp cội rễ - mà chỉ chạy theo cành, nhánh, ngọn lắm hoa và nhiều trái. Từ đấy,
khó phân biệt đâu là đạo Phật chơn chánh, đâu là đạo Phật đã bị biến chất, chạy
theo thị hiếu dung thường của thế gian. Đôi nơi đạo Phật còn bị trộn lẫn với
tín ngưỡng duy linh và cả tín ngưỡng nhân gian nữa... Nhiều lắm, không kể xiết
đâu:
.
1- Tôn giáo: Đạo Phật có những sinh hoạt về
tôn giáo nhưng đạo Phật không phải là tôn giáo, vì đạo Phật không có một vị
thượng đế tối cao hoá sinh muôn loài và có quyền ban thưởng, phạt ác.
.
.
2- Tín ngưỡng: Đạo Phật có những sinh hoạt tín
ngưỡng nhưng đạo Phật không phải là tín ngưỡng để mọi người đến van vái, cầu
xin những ước mơ dung tục của đời thường.
.
3- Triết học: Đạo Phật có một hệ thống tư tưởng
được rút ra từ Kinh, Luật và Abhidhamma, được gọi là “như thực, như thị thuyết”
chứ không phải là một bộ môn triết học “chia” rồi “chẻ”, “phán” rồi “đoán” như
của Tây phương
.
.
4- Triết luận: Đạo Phật
có tuệ giác để thấy rõ Cái Thực chứ không sử dụng lý trí phân tích, lý luận.
Còn triết, còn luận là vì chưa thấy rõ Cái Thực. Đạo Phật là đạo như chơn, như
thực. Kinh giáo của đức Phật luôn đi từ cái thực cụ thể để hướng dẫn mọi người
tu tập, nó không có triết, có luận đâu. Ngay “thiền” mà còn “luận” (thiền luận)
là đã đánh mất thiền rồi.
.
5- Từ thiện xã hội: Đạo
Phật có những sinh hoạt từ thiện xã hội nhưng không coi từ thiện xã hội là tất
cả, để hy sinh cuộc đời đầu tròn, áo vuông một cách uổng phí. Đạo Phật còn có
những sinh hoạt cao cả hơn: Đó là giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, tu tập thiền
định và thiền tuệ nữa. Từ thiện xã hội thì ai cũng làm được, thậm chí người ta
còn làm tốt hơn cả Phật giáo, ví dụ như Bill Gates. Còn giáo dục, văn hoá, nghệ
thuật của đạo Phật là nền tảng Mỹ Học viết hoa (nội hàm các giá trị nhân văn,
nhân bản) mà không một tôn giáo, môt chủ nghĩa, một học thuyết nào trên thế
gian có thể so sánh được. Và đây mới là sự phụng hiến cao đẹp của đạo Phật cho
thế gian. Còn nữa, nếu không có tu tập thiền định và thiền tuệ thì mọi hình
thái sinh hoạt của đạo Phật, xem ra không phải là của đạo Phật đâu!
.
6- Cực lạc, cực hạnh
phúc: Đạo Phật có nói đến hỷ, lạc trong các tầng thiền; có nói đến hạnh phúc
siêu thế khi ly thoát tham sân, khổ lạc (dukkha), phiền não của thế gian - chứ
không có một nơi chốn cực lạc, cực hạnh phúc được phóng đại như thế.
.
.
7- 8 vạn 4 ngàn pháp môn:
Đạo Phật có nói đến 8 vạn 4 ngàn pháp uẩn (dhammakhandha) chứ không nói đến 8
van 4 ngàn pháp môn (dhammadvāra). Uẩn (khandha) ngoài nghĩa che lấp, che mờ và
nghĩa chồng lên, chồng chất, còn có nghĩa là nhóm, liên kết, tập hợp ví như
Giới uẩn (nhóm giới), Định uẩn (nhóm định), Tuệ uẩn (nhóm tuệ). Do từ uẩn
(khandha) lại dịch lệch ra môn - cửa (dvāra), pháp môn nên ai cũng tưởng là có
8 vạn 4 ngàn pháp môn, tu theo pháp môn nào cũng được! Ai là người có thể đếm
đủ 8 vạn, 4 ngàn cửa pháp này? Còn nữa, xin lưu ý, 8 vạn 4 ngàn chỉ là con số
tượng trưng, có nghĩa là nhiều lắm, đếm không kể xiết theo truyền thống tôn
giáo và tín ngưỡng Ấn Độ cổ thời. Ví dụ 84 ngàn lỗ chân lông, 84 ngàn vi trùng
trong một bát nước, 84 ngàn phiền não, 84 ngàn cách tu...
.
8- Xin xăm, bói quẻ, cầu sao,
giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu: Những hình thức này không phải của đạo Phật.
Trong kinh tụng Pāli có đoạn: “Sunakkhataṃ sumaṅgalaṃ supabhātaṃ suhuṭṭhitaṃ,
sukhno ca suyiṭṭaṃ brahmacārisu. Padakkhinaṃ kāyakammaṃ vācākammaṃ padakkhinaṃ
padakkhinaṃ manokammaṃ paṇidhī te padakkhinā...”
Có nghĩa là: Giờ nào
(chúng ta) thực hành thân, khẩu, ý trong sạch; giờ đó được gọi là vận mệnh tốt,
là giờ tốt, là khắc tốt, là canh tốt... Ngày đó gọi là có nghiệp thân phát đạt,
nghiệp khẩu phát đạt, nghiệp ý phát đạt. Và nguyện vọng theo đó được gọi là
nguyện vọng phát đạt. Người tạo nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý phát đạt như
thế rồi sẽ được những lợi ích phát đạt (chữ phát đạt có thể có thêm nghĩa nhiêu
ích).
.
9- Định mệnh: Đạo Phật có
nói đến nghiệp, đến nhân quả nghiệp báo chứ không hề nói đến định mệnh. Theo
đó, gây nhân xấu ác thì gặt quả đau khổ, gây nhân lành tốt thì gặt quả an vui -
chứ không phải “cái tơ cái tóc cũng do trời định” như định mệnh thuyết của
Khổng Nho hoặc định mệnh 4 giai cấp của Bà-la-môn giáo.
.
10- Siêu độ, siêu thoát:
Không có bài kinh nào, không có uy lực của bất kỳ ông sư, ông thầy nào có thể
tụng kinh siêu độ, siêu thoát cho hương linh, vong linh, chân linh cả. Thời
Phật tại thế, nếu có đến nơi người mất, chư tăng chỉ đọc những bài kệ vô thường,
khổ và vô ngã để thức tỉnh người sống; và hiện nay các nước Phật giáo Theravāda
(nguyên thuỷ) còn duy trì. Có thể có hai trường hợp:
- Nếu vừa chết lâm sàng
thì thần thức người chết vẫn còn. Vậy có thể đọc kinh, mở băng kinh, chuông mõ,
hương trầm... để “thần thức người chết” hướng về điều lành... để thần thức tự
tạo “cận tử nghiệp” tốt cho mình.
- Nếu thần thức đã lìa
khỏi thân rồi – thì họ đã tái sanh vào cõi khác rồi, ngay tức khắc. Khi ấy thì
gia đình làm phước để chư tăng tụng kinh hồi hướng phước ấy cho người đã mất.
Cả hai trường hợp trên
đều không hề mang ý nghĩa siêu độ, siêu thoát mà chỉ có ý nghĩa gia hộ, gia
niệm, gia lực mà thôi. Tu dựa vào tha lực cũng tương tự như vậy, nhưng cuối
cùng cũng phải tự lực: “Tự mình thắp đuốc mà đi, tự mình là hòn đảo của chính
mình”.
Chư thiên chỉ có khả năng
hoan hỷ phước và báo truyền thông tin ấy cho người quá vãng mà thôi. Họ không
có uy lực ban phước lành cho ai cả.
.
11- Huyền bí, bí mật:
Giáo pháp của đức Phật không có cái gì được gọi là huyền bí, bí mật cả. Đức
Phật luôn tuyên bố là “Như Lai thuyết pháp với bàn tay mở ra”; có nghĩa là ngài
không có pháp nào bí mật để giấu kín cả!
.
12- Tâm linh: Ngày nay,
người ta tràn lan lễ hội, tràn lan mọi loại điện thờ với những hình thức mê
tín, dị đoan, sa đoạ văn hoá... mà ở đâu cũng rêu rao các giá trị tâm linh. Đạo
Phật không hề có các kiểu tâm linh như vậy. Thuật ngữ tâm linh này được du nhập
từ Trung Quốc. Và rất tiếc, tôi không hề tìm ra nguồn Phật học Pāli hay
Sanskrit có từ nào tương thích với chữ “linh” này cả!
.
13- Niết-bàn: Nhiều người
tưởng lầm Niết-bàn là ở một cõi nào đó, một nơi chốn nào đó; thậm chí là ở một
thế giới ở ngoài thế gian này. Người nào tìm kiếm Niết-bàn kiểu ấy, thuật ngữ
thiền tông có cụm từ “lông rùa, sừng thỏ” như ngài Huệ Năng đã nói rõ: “Phật
pháp tại thế gian. Bất lý thế gian giác. Ly thế mịch bồ-đề. Cáp như tầm thố
giác”. Thố giác là sừng thỏ. Và giác ngộ cũng vậy, chính ở trong khổ đau, phiền
não mới giác ngộ bài học được.
.
14- Bỏ khổ, tìm lạc: Tu
Phật không phải là bỏ khổ, tìm lạc. Xin lưu ý cho: Khổ và Lạc chính là căn bản
của phiền não!
.
15- Tu để được cái gì! Có
nhiều người nghĩ rằng, tu là để được cái gì đó. Xin thưa, được cái gì là sở
đắc. Ai sở đắc? Chính là bản ngã sở đắc. Đạo Phật là vô ngã.
16- Tu là sửa: Nếu tu là
sửa thì mình đã từ “cái ta này” biến thành “cái ta khác”. Nếu tu là không sửa
thì cứ để nguyên trạng tham sân si như vậy hay sao? Xin thưa, sửa hay không sửa
đều trật. Đạo Phật quan trọng ở Cái Thấy! Có Cái Thấy mới nói đến giác ngộ và
giải thoát. Không có Cái Thấy này thì tu kiểu gì cũng trệch hướng hoặc rơi vào
phước báu nhân thiên.
.
17- Vía: Đạo Phật không
có vía nào cả. Vía, hồn, phách là quan niệm của nhân gian. Ví dụ, ba hồn bảy
vía. Ví dụ, nam thất, nữ cửu – nam bảy vía, nữ chín vía. Nếu là nam thất, nữ
cửu thì nó trùng với nam 7 khiếu, nữ 9 khiếu. Vía là phần hồn. Không có cái
hồn, cái linh hồn tự tồn tại nếu không có chỗ nương gá. Vía không độc lập được.
Như danh - phần tâm, sắc - phần thân – luôn nương tựa vào nhau. Chỉ có năng lực
thiền định mới tạm thời tách lìa danh ra khỏi sắc, như Cõi trời Vô tưởng của tứ
thiền. Tuy nhiên, cõi trời Vô tưởng hữu tình này không phải là không có danh
tâm mà chúng ở dạng tiềm miên. Còn các Cõi trời Vô sắc thì sắc không phải là
không có, chúng cũng ở dạng tiềm miên. Thật đáng phàn nàn, Phật và Bồ-tát đều
có “vía” cả! Và cũng thật là “đau khổ” khi trong lễ an vị Phật, người ta còn hô
“Thần nhập tượng” nữa chứ!
.
18- Bồ-tát: Bồ-tát là âm
của chữ Bodhisatta: Chúng sanh có trí tuệ. Vậy, chúng ta tạm thời bỏ quên “khái
niệm Bồ-tát” quen thuộc trong kinh điển mà trở về với nghĩa gốc là “chúng sanh
có trí tuệ”. Và như vậy, sẽ có hạng chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Thanh
Văn; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Độc Giác; chúng sanh có trí tuệ với
nguyện lực Chánh Đẳng Giác. Ngoài 3 loại chúng sanh có trí tuệ trên – không có
loại chúng sanh có trí tuệ nào khác.
.
19- Phật: Phật là âm của
chữ Buddha, nghĩa là người Giác ngộ. Vậy chúng ta nên tạm thời bỏ quên “khái
niệm Phật” từ lâu đã mọc rễ trong tâm thức mà trở về nghĩa gốc là bậc Giác ngộ.
Vậy, có người Giác ngộ do nghe pháp từ bậc Chánh Đẳng Giác, được gọi là Thanh
Văn Giác. Có người Giác ngộ do tự mình tu tập vào thời không có đức Chánh Đẳng
Giác, được gọi là Độc Giác. Có vị Giác ngộ do trọn vẹn 30 ba-la-mật, trọn vẹn
minh và hạnh nên gọi là Chánh Đẳng Giác.
Không có vị Giác ngộ
(Phật) nào ngoài 3 loại Giác ngộ trên.
.
20- Thể nhập: Tu là không
thể nhập vào cái gì cả. Thể nhập là bỏ cái ngã này để nhập vào cái ngã khác.
Cái ngã khác ấy có thể là dòng sông, có thể là ngọn núi, có thể là một cội cây,
có thể là một thần linh, thượng đế. Cái cụm từ “thể nhập pháp giới” rất dễ bị
hiểu lầm. Khi đi, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái đi; khi nói, chánh
niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái nói; khi ăn, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn
với cái ăn – thì đấy mới đúng nghĩa “thể nhập pháp giới”, ngay giây khắc ấy,
mọi tham sân, phiền não không có chỗ để , sanh khởi.
🌹Sādhu! Sādhu! Sādhu🌹
.
Tác giả: Sư Ôn Minh Đức Triều Tâm Ảnh
.
(Nguồn: sưu tầm)