Bạch Lan (ĐK67):
Được tin chị BÙI BÍCH HÀ mới ra đi sáng ngày 14/7/21. Thương tiếc và nhớ bà chị tài hoa. Suốt hơn 10 năm làm trưởng ban văn nghệ kiêm trưởng ban tổ chức DKQH Nam Calif., B Lan may mắn có chị Bùi Bích Hà làm MC cho chương trình văn nghệ. Những tháng ngày hân hạnh đứng bên chị Hà hiền lành dịu dàng, tài ăn nói văn chương lưu loạt ít có MC nào sánh bằng. Nhìn chị giới thiệu chương trình, qua từng mục một lưu loát như nước chảy êm đềm của giòng sông Hương xứ Huế. Càng gần chị càng thương mến kính phục chị.
Chị ra đi để lại bao thương tiếc của bạn bè, đặc biệt các em cựu học sinh Đồng Khánh Huế trong đó có BL. Chúng ta hãy cùng nhau thắp 1 nén nhang cầu nguyện cầu hương hồn chị Bùi Bích Hà sớm vãng sanh.
(BL)
MỘT THỜI CỦA TUỔI MỘNG MƠ
Bài viết của nhà văn Bùi Bích Hà (1938-2021) về nhà văn Tuý Hồng và Huế
Chúng tôi có bốn năm bên nhau dưới mái trường Đồng Khánh, Huế. Đời sống của những cô thiếu nữ ở cái thành phố cổ kính, phong kiến, bé tí xíu ấy thập niên 50 thế kỷ trước chẳng có gì nhiều để kể lại nếu không là những lá thư kết bạn bốn phương vớ vẩn chuyền cho nhau đọc vào giờ ra chơi, trong tiếng cười rúc rích và những đuôi mắt lúng liếng.
Tôi học cùng lớp với Túy
Hồng, cùng ngồi ở những hàng ghế đầu, cùng vòng tay nghiêm chỉnh để lên bàn
thành hàng thẳng tắp trong mỗi giờ học. Thân phụ Túy Hồng là giáo sư Nguyễn
Doãn Thám, dạy Pháp văn chúng tôi ở hai lớp đệ thất và đệ ngũ. Thầy rất nghiêm
nhưng điềm đạm, không bao giờ lớn tiếng rầy la chúng tôi và không bao giờ phí
phạm thì giờ nói chuyện ngoài giáo trình từ lúc bước vào lớp cho đến lúc xách
cặp bước ra. Tứ thời bát tiết, lúc nào Thầy cũng mặc bộ complet bằng hàng đũi
màu vàng nhạt, có chút cũ kỹ nhưng tươm tất. Thầy ít khi ngồi ở bàn mà thường
một tay trong túi quần, tay kia cầm viên phấn để khi cần thì dừng lại, viết lên
bảng. Thầy đi qua đi lại, đi tới đi lui hết bề ngang lớp học, mắt nhìn xuống
đám học trò với dáng vẻ oai phong, tự tin và cả sự phấn khích tỏ lộ rõ của một
diễn viên trong vai trò đắc ý nhất. Trong khi chúng tôi có chút ganh tỵ rất con
nít, thấy Túy Hồng oai quá vì có cha là giáo sư, xem ra chị lại rất cấn cái,
khó chịu trong hoàn cảnh ấy. Nhờ công ơn giáo dục rất kỹ của Thầy môn Pháp văn,
sau này lên đại học, tôi hãnh diện được Giáo sư thỉnh giảng Camborde đến từ Bỉ,
có lần ưu ái hỏi: “Cô từ đâu tới?” sau nhiều bài làm được ông hết lời khen
tặng.
Bây giờ, trong hồi tưởng, mỗi khi nghĩ về Túy Hồng, tôi thấy bật ra trong
trí nhớ đôi môi cắn chỉ đỏ thắm, khô, nứt nẻ của chị (ngoài phố mùa đông, đôi môi em là đốm lửa hồng, TCS) Mùa
đông ở Huế rét ngọt những hôm trời mưa bụi hay không mưa, mây nặng màu chì và
không gian đông cứng như đá, chạm tay vào đâu cũng giật bắn người như bị chạm
điện. Dưới bầu trời ẩm sẫm và trong cái lạnh co thắt ruột gan, nhìn tôi mặt tái
mét, đôi môi thâm tím, chị thì thào bảo tôi: “BH bắt chước mình đi, về nhà đứng
trước gương, xé một cái bao nhang, thấm chút nước bọt rồi bôi lên môi như mình,
đẹp cho coi!” Tôi bắt chước làm như chị dặn, cả môi và mấy đầu ngón tay đỏ ong,
tòe loe phẩm nhuộm, vừa không hồng hào tự nhiên như chị, vừa kệch cỡm khiến mẹ
tôi tinh mắt nhận ra ngay: “Em bôi cái gì lên mặt thế? Da trẻ con bôi tầm bậy
hỏng đi đấy!” Thế nhưng rửa bớt, chút ánh hồng sót lại có làm cho khuôn mặt tôi
bớt xanh xao và sáng ra. Hôm đầu đi học với chút thay đổi liều lĩnh ấy, tuy tôi
đã cẩn thận lau hết phẩm điều của bao nhang đi nhưng tôi không tự tin lắm, sợ
bạn bè thấy tôi khác nên dọc đường cứ liếm môi liên hồi và nhận ra vị đắng ngắt
của thuốc nhuộm làm se đầu lưỡi, khiến tôi chợt lo, thoáng nghĩ ra sao không
hỏi chị cẩn thận, nhỡ ngộ độc thì có chết không?
Đến trường, chị khuyến
khích tôi: “BH cứ làm tiếp đi, sẽ quen mà. Sau này không cần giấy nhang nữa, cứ
cắn môi là đỏ thôi!” Chị cả quyết nhưng tôi sớm biết có làm gì thì cũng không
giống chị được, nên thôi. Chị cười hoài, cả môi lẫn mắt, tươi roi rói, không
biết chị có thật vui không mà sao tôi nhìn đôi môi chị, cứ cảm giác nó như một
vết thương mòng mọng, có thể bật máu ra bất cứ lúc nào và thường xuyên làm chị
đau lặng lẽ.
Túy Hồng có đôi mắt chim tròn xoe, bốn mùa trong trẻo như mặt nước hồ long
lanh gợn, bồi hồi, sâu lắng, cuốn hút. Chị có mái tóc đen, dầy, xoắn xít quăn
hai bên đường ngôi rẽ giữa đổ xuống thái dương, khuôn mặt vuông, sống mũi trũng
giữa hai hàng lông mày và riềm mi đậm, làn môi cắn chỉ trễ nải trên chiếc cằm
có hậu, làm chị trông có cái man dại của một bông hoa lạ lẻ loi nở. Trong lớp,
chị nói cười láu táu, hai mắt chớp như nhánh hổ ngươi nhưng chị ít kết bạn. Giờ
ra chơi, thay vì túm năm tụm ba, chị một mình đi dọc cái hành lang dài mùa đông
các bức mành tre được cuốn lên, thò một bàn tay ra hứng những bụi mưa bay
nghiêng hay những giọt tranh lả tả. Ơn em dáng mỏng mưa vời (DTL) tôi
nghiệm ra ở chị có những nét đẹp thầm, kín đáo, đi qua muốn nhìn lại vì như có
điều gì bỏ sót.
Xong 4 năm trung học đệ
nhất cấp, chúng tôi chia tay rồi lại thấp thoáng trông thấy nhau ở sân trường
Đại học Sư phạm Huế cuối thập niên 50, giờ giấc và phân khoa chuyên môn khác
biệt. Từ đó, tôi chỉ còn biết về chị qua tin tức giữa bằng hữu cũ hoặc trên báo
chí vì chị nổi tiếng rất bất ngờ và nhanh chóng. Tôi biết chị bỏ Huế vào
Saigon, dạy Anh văn ở truờng Mạc Đĩnh Chi. Tôi biết chị trở thành tiểu thuyết
gia nổi tiếng có tác phẩm đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc. Tôi biết chị kết hôn
với nhà văn Thanh Nam và sau cùng, khi Saigon thất thủ, tôi biết gia đình chị
di tản kịp ngày 30/4.
Đầu năm 1986, tôi qua
Mỹ. Vài năm sau, nhờ nhà thơ Trần Mộng Tú cùng chồng con rời Cali dọn lên
Washington State, tiểu bang Ngàn Xanh vùng Tây Bắc, nơi Túy Hồng đang định cư,
chúng tôi vui mừng nối lại nhịp cầu đứt đoạn.
Tôi bay lên thăm chị lần
đầu tại căn nhà ở đường Othello, trung tâm Seattle. Lúc đó, anh Thanh Nam đã
mất được mấy năm. Ở lưng chừng cái cầu thang cuốn đưa xuống chỗ lấy hành lý,
tôi bồi hồi nhận ra bạn vẫn nhỏ nhắn trong chiếc áo len hồng, đứng co ro, ngơ
ngác, hai tay ôm chặt cái ví vào ngực y như những ngày Đồng Khánh, chị ôm khư
khư cái cặp sách cùng một kiểu. Tôi đến bên bạn, mừng tủi vỡ òa. Tôi ngồi vào
xe cho chị lái, qua xa lộ, qua những chặng đường lưu thông yên ả từ phi trường
SeaTac về thành phố Seattle, về nhà chị. Bất thình lình, cả tôi và chị đều cùng
lúc thấy một chiếc xe chạy ngược chiều, mũi xe hướng về chúng tôi ở khoảng cách
vừa đủ để có thể không húc nhau. Chị kêu khẽ như tiếng một con chim bị trúng
đạn ná: “Chết cha, mình chạy ngược đường một chiều!” May mắn cho tất cả là ngay
bên tay phải tôi có con đường ngang nhỏ cho chị kịp rẽ vào để tìm lối ra.
Chao ôi, bao nhiêu vật
đổi sao dời, bao nhiêu thăng trầm đến mức, bạn tôi vẫn hiền hậu, vẫn khờ khạo,
vẫn nguyên vẹn một Túy Hồng mười ba, mười bảy, gồng mình khi bắt buộc nhưng
trong lòng chết nhát thế ư?
Nhà chị ở đường Othello,
lạ thật, duyên nghiệp nào bỏ chị vào đây? Tôi chỉ đến một lần này, chị đi về
bao nhiêu năm, có bao giờ mường tượng ra các nhân vật trong vở kịch Othello lẫy
lừng của Shakespeare cách nay hơn bốn thế kỷ? Những mâu thuẫn, những xung đột
với kịch tính cao độ, sự đan kết giữa nét thơ mộng và việc đời khủng khiếp,
giữa cao thượng và tầm thường kêu gọi một cách giải quyết tình lý vòng vo, lẫn
lộn, của các nhân vật trong Othello và trong đời riêng của chị liệu có an ủi
hay có làm chị khổ đau hơn? Phiên bản của loài nguời trên dòng thời gian vô tận
có những đổi thay dễ thấy căn cứ vào dung mạo, ngôn ngữ và y phục nhưng cấu
trúc và vận hành của trái tim trong lồng ngực con người là bất biến. Như Lai đi
tìm chấm dứt luân hồi, chấm dứt khổ đau. Hơn 2000 năm qua, đời vẫn luân hồi,
con người vẫn khổ đau không loại trừ những bước chân hành giả theo Như Lai đi
trong kinh kệ và trầm hương, trong ba vạn sáu ngàn ngày như một giấc mê hoang.
Vài ngày ngắn ngủi bên
nhau, chúng tôi không có thời giờ ôn lại quá khứ. Chúng tôi nói chuyện hiện
tại. Chị phàn nàn các con không vâng lời. Trước mắt tôi, cả bốn cháu cao lớn
dềnh dàng, sắp hàng ngang, lễ phép vòng tay, cúi đầu chào khách lạ: “Thưa Dì.”
Hỏi ra, chỉ là các cháu vào đại học, tự ý chọn con đường đi theo sở thích
riêng. Cháu gái đầu lòng học ngành điều dưỡng 4 năm, đi học bằng xe buýt, giấu
trong cái túi nhỏ thỏi son, hộp phấn hồng và cây bút chì kẻ mắt. Đến trường,
cháu vào locker trang điểm. Tan lớp, trước khi về nhà, cháu lại vào locker rửa
mặt. Tôi thực sự ngạc nhiên thấy bạn tôi bắt các con mình sống như chị đã phải
sống gần nửa thế kỷ trước ở cái thành phố Huế chật hẹp về địa dư, cổ kính về
văn hóa, từ đó chúng tôi sinh ra và lớn lên mang trong mình nhiều cố tật.
Trong căn nhà ở đường
Othello, chị là hình ảnh người mẹ nghiêm khắc, nhiều tài năng và bí ẩn như một
mê cung. Chị nuôi con thú cưng là một chú khuyển lai gốc sói, to lớn, chả biết
bao nhiêu tuổi mà thả những sợi lông màu xám khắp nhà. Đón tôi, chị phải bóp
bụng bỏ ra $300 mỹ kim thuê một người Mễ đến dọn dẹp và giặt thảm nhưng thuốc
giặt thơm vẫn không đánh bạt được mùi lông chó phảng phất khắp nơi, nhiều nhất
trên sofa. Kỹ lưỡng vậy vẫn chưa đủ, chị đem con chó gửi ở nơi nào khác để tôi
không bị sợ hãi vì theo lời chị, thỉnh thoảng nó vẫn hú giữa đêm khuya. Để đãi
tôi bữa cơm thanh đạm gia đình, chị khui một hộp ham đổ thẳng vào cái nồi đã
bắc lên bếp. Chị cắt miếng một bìa tàu hũ trắng cho tiếp vào đấy cùng với vài quả
cà chua và chị giải thích đây là món tàu hũ om thịt. Nén chút ngậm ngùi, tôi
cười vui hỏi đùa bạn: “Lấy chồng Bắc Kỳ, quên hết món ăn Huế rồi hả?” Chị không
trả lời nhưng đôi đũa trong tay chị đảo lia lịa cái nồi đang sôi trên bếp và
món tàu hũ kho thịt, cà chua của chị giống như một đống vữa màu đỏ hồng.
Vừa rồi, có chị bạn văn chuyển cho tôi bài viết về Túy Hồng của bà Liễu
Trương, một ngòi bút phê bình cự phách hiện sống ở Âu châu. Bài viết xuất hiện
trên mạng ngày 31/5/ 2017, có nhan đề “Viết Với Thân Xác Như Túy Hồng,” trong
đó, tác giả mổ xẻ cuốn Tôi Nhìn Tôi Trên Vách của chị, trích dẫn một đoạn Túy
Hồng làm tác giả kinh ngạc khi chị viết về sự thèm muốn các món ăn Huế của
nhiều nhân vật trong truyện, sự thèm muốn như một ám ảnh cực kỳ tha thiết, dai
dẳng, dung tục, pha trộn mùi nước mắm chanh ớt thật cay với mùi tỏi hăng nồng,
bừng bừng, xoáy vào gan ruột, mùi của da thịt động tình mập mờ tơ lụa. “Ăn một bụng bánh khoái Gia Hội, ních bốn dĩa bánh bèo Tây Thượng,
ăn ba đọi cơm hến, ăn một mớ bánh nậm…” Người Huế cực đoan
trong cảm xúc nên ngôn ngữ Huế, khi cần, diễn tả được trạng thái cực điểm và
ngòi bút Túy Hồng sử dụng tinh xảo tố chất này, biến chúng từ tầm thường đến
tràn trề ma lực. Sâu bên dưới biểu hiện nói trên, nhà phê bình Liễu Trương nhìn
thấy tình yêu Huế nồng nàn, gắn bó của Túy Hồng. Gợi nhắc Huế ở bất cứ điều nhỏ
nhặt nào là khua thức rộn ràng những kỷ niệm với Huế đã hòa quyện vào máu thịt
chị thành một thực thể bất khả chia lìa. Như đã có lần chị thở dài tâm sự với
tôi: “Nghe tiếng một người đàn ông Huế giữa phố phường là thấy lại một
trời kỷ niệm. Không nghe được, mình chết không nhắm mắt” nên
lúc cuối đời, chị đã rất dịu dàng ôm một người đàn ông Huế chỉ vì chị muốn nghe
bên mình cái “âm vọng” suốt đời mơ tưởng, vừa là hạnh phúc chói chang, vừa là
thương đau nhầy nhụa trong cả tâm hồn lẫn thể xác chị đang mỗi ngày tan
rã, “Còn gì nữa đâu mà khóc với cười…”(PD)
Tôi lấy làm lạ ngay giữa
downtown Seattle, ngôi nhà liêu xiêu của Túy Hồng ở trên đầu con đường dốc lên,
ngắn, lổn nhổn đá vụn và cỏ dại. Bên tay trái ngôi nhà, là một căn phòng nhỏ
hoang phế, cửa sổ kiếng vỡ, bẩn, nghiêng vẹo, khiến tôi không thể không liên
tưởng đến cái không gian buồn bã của cuốn tiểu thuyết Wuthering Height với
Emily Bronte. Tôi tò mò nhưng không hỏi. Chị cũng không nói. Về sau có nguời
cho biết anh Thanh Nam đã nằm bệnh vài năm cuối đời trong căn phòng ấy. Tôi
đoán chị yêu thích ngôi nhà và cảnh vật xung quanh nó vì con ngõ lên xuống nhà
chị giống hệt những con ngõ bên ven con đường tráng nhựa men theo giòng sông An
Cựu nơi chị ở Huế, chỉ thiếu mấy cây mít lá mướt như tắm mỡ, mùa hè lũng liễng
từ gốc đến ngọn những chùm quả xanh dòn, căng mẩy, thiếu cả quãng sông lúc
trong lúc đục, năm năm tháng tháng miệt mài cuộn nỗi buồn ra cửa Thuận An…
Suốt bốn năm bên nhau
trong lớp, Túy Hồng là chiếc bóng mờ nhạt bên cạnh một bầy con gái lau hau tuổi
chị, tinh anh và tinh ranh hơn chị. Chúng xinh đẹp, học giỏi, mỗi đứa một vẻ,
tươi mát, quyến rũ. Qua năm đệ thất lạ nước lạ cái, lên đệ lục, nhiều đứa làng
nhàng mang thư tình Khải Định vào lớp cho bạn bè chia nhau đọc, có đứa bảnh
hơn: chàng du học tận Saigon, Hà Nội; có đứa như thần tiên, cổ tích: chàng là
thi sĩ, làm thơ hay nhất nước và ở xa tít tắp bên trời Tây; có đứa duyên phận
tội tình cột buộc vào đời trai thời loạn, mỗi lá thư là một hẹn hò không biết
có còn lần nữa hay không? Thế nhưng chúng sởn sơ hạnh phúc. Chúng rạo rực chờ
mong. Chúng nôn nao hy vọng. Chúng lo âu. Chúng khóc cười từng khi. Chúng sống
rực rỡ như mặt trời thức dậy mỗi sớm mai. Chúng lãng mạn thầm như khu vườn
khuya thao thức màu trăng xứ Huế. Túy Hồng thì không. Túy Hồng như ngày không
nắng, không mưa. Túy Hồng như tập vở không nặn ra chữ. Túy Hồng như bấu trời
đứng gió. Túy Hồng khô cứng, lạnh lẽo, dáng đi như bức tường không đổ nền vững,
cứ chực nghiêng về phía trước. Chị một mình, thui thủi. Chị một mình, mặc thế
sự xung quanh. Chị đi học vì ai cũng đi học. Vì không thể ở nhà mà có cơm mẹ
thổi nấu sẵn cho ăn, có quần áo mẹ may sẵn cho mặc. Chị đi học để chờ khôn lớn.
Thế nên khi chị đột
nhiên nổi tiếng như cồn trên văn đàn cả nước, bạn bè cũ ngạc nhiên vì không có
dấu hiệu sớm sủa nào ở chị báo trước điều này. Riêng tôi không lạ, biết chị vốn
không giống bất cứ đứa nào trong cả bọn chúng tôi ở Đệ nhất cấp trường Đồng
Khánh thập niên 1950. Chị không là một nhà văn được nhìn theo ước lệ, đặt ra
mẫu mực hàn lâm cho cả một thời đại. Chị lớn lên trong một gia đình có đông đàn
bà hơn đàn ông và cảnh ngộ eo xèo, khốn khổ này khiến chị không muốn đi con
đường của họ. Chị tách mình ra, tự do, thênh thênh một cõi. Chị là một hiện
tượng. Thâm trầm. Ẩn mật. Chị là một kho tàng chất chứa của cải lạ. Không ai
thấy. Không ai ngờ. Không ai có thể thẩm lậu. Cho tới khi chị mở cửa, đãi đằng,
mời mọc những thực đơn của riêng chị.
Không phải nhà văn lớn
VP ở tòa soạn Bách Khoa khi không mà vội vàng hạ cố viết mấy giòng khen tặng
chị kèm với chi phiếu $1,000 hậu hĩnh cho một bài viết đầu tay như thế. Sau
này, miệng lưỡi thiên hạ đã làm chị nao núng, nghi hoặc. Sau này lề thói xã hội
đã làm nhà văn ngượng ngùng, biện bạch cho đánh giá của ông, thậm chí muốn chối
bỏ. Cả chị, cả ông, không ai lầm lẫn chi cả. Một cách nào đó, họ chờ nhau trong
vô thức. Chị đến thình lình, cất tiếng kêu man dại của con mèo cái có đôi mắt
tím than chạy thục mạng trên mấy cái mái nhà lợp ngói nung lửa mặt trời mùa hè
ở Huế. Ông đến đúng lúc, đúng cách, như một người đàn ông từng trải, biết thèm
muốn đàn bà, nghĩ đến chị với sự thèm muốn lộ liễu ấy ngay khi chỉ mới đánh hơi
mà chưa thấy chị, rất khác với những chàng trai Huế, vừa nhát cáy, vừa tự phụ,
yêu đương kiểu tình sách vở, kiểu lãng mạn vụn vặt tỉnh lẻ, ngâm nga viết lá
thư ba tháng không biết làm sao đưa, mới cầm tay nhau đã vội vàng ước hẹn trăm
năm, mộng thắm hiền hòa như gạo thổi thành cơm. Chị không chú ý đến họ nên suốt
thời con gái dậy thì, chị không yêu ai. Chị không thèm ghé mắt đọc chung mấy lá
thư tình viển vông của lũ nhóc chúng tôi toàn gửi nhờ địa chỉ nhà nhau qua bưu
điện, Ý Uyên là Oanh Oanh, Mai Tâm là Cỏ Hồng, Bích Hảo là Thu Giang..vv..kể
những chuyện thần tiên ở mãi tận đâu đâu: “Provence mùa xuân hoa trắng nở kín
trời làm anh nhớ em!” “Em ơi, Brest quanh năm sương mù chẳng thấy quê nhà,
chẳng thấy nơi em ở!” “Tết Hà Nội đi giữa hoa đào Nhật Tân hình dung ra em với
má môi hồng, ước gì anh là gió để được “thơm” em!”
Nhà phê bình Liễu Trương
rất tinh tế để nhận biết Túy Hồng nặng tình yêu Huế lạ thường. Sau này, khi
khôn lớn đủ, tôi biết hơn ai hết, bạn tôi là một thu gom toàn vẹn những đặc
trưng của một xứ Huế cuồng nhiệt, kiên cường, nồng nàn, say đắm, trong tình
yêu, suy nghĩ, mơ ước và biểu lộ. Duyên trời đưa đẩy hay oan khiên ghé qua vườn
thúy để chị và ông đâm sầm vào nhau, vỡ ra từng mảnh. Ông có vợ, có con. Ông
thủy chung với vợ con nên nhìn thấy ở chị cơ hội tuyệt vời để thử thách hay để
bay bổng với trái tim tù ngục của mình? Họ như những đồng cỏ bạt ngàn khô cháy
chờ lửa để rực rỡ hóa thân. Trong thế giới riêng chị, tình yêu, nếu có một điều
gì gọi tên như thế giữa loài người thì đó là ngọn pháo bông chỉ tỏa rạng một
lần trong phút giây. Là ngôi sao lạ chỉ xẹt qua bầu trời một lần rồi mất hút
vào hư vô. Còn lại có chăng chỉ là chút hồi quang tuyệt đẹp trong tâm tưởng đã
ước mơ đến rã rời của chính chị.
Sau đó, như mọi thứ đã
chết và thối rữa, chị tình nguyện một mình thu dọn, khâm liệm tang tích tàn dư
thật sâu, thật kỹ, rải trầm hương lên nghĩa trang và nếu không thể tự hủy mình
như một cách chôn vùi tận cùng, chị sẽ chấp nhận cuộc sống như đang chết của
cha mẹ chị, của nhân loại quanh chị, đàn ông đàn bà lấy nhau và sinh con đẻ
cái, suốt đời gấu ó nhau, cam chịu ngày tháng qua trong những cái lồng chật
chội giam giữ họ.
“Tôi nhìn tôi trên vách,” một Túy Hồng dập đầu diện bích. Cô đơn cùng cực. Khao
khát cùng cực. Xác thân lầm bụi trần ai là lãnh cung đầy ải chị.
Túy Hồng tâm sự: “Suốt nhiều năm, nửa khuya, trong ngôi nhà tịch mịch chỉ
có mùi trẻ con, hơi thở của chúng lẫn với mùi lông chó và thỉnh thoảng tiếng hú
đêm trăng của nó, mình chui vào closet nói chuyện điện thoại đường xa với Thiền
sư.” Nguyên cớ cái vạ này cũng y như cái truyện ngắn đầu tay chị gởi cho Bách Khoa
năm nào, cho VP nhìn thấu tâm can chị. Chị gửi một bài chi đó cho tờ báo Phật
học và cái tâm Phật cứu rỗi chị những phút giây khắc khoải đã làm lay động trái
tim Thiền sư. Họ đến với nhau tự nhiên như nắng gió qua hiên nhà, như cơn mưa
đầu mùa làm mát những viên ngói khô nẻ. Họ nói đủ thứ chuyện, chung quy là
phiền não của nhân gian, hệ lụy của nghiệp chướng, sạn đạo dưới gót bậc chân tu
hay hành giả khổ đau đi tìm niết bàn siêu thoát…” Chị kể: “Chuyện đời nói bao
nhiêu là đủ? Một hôm, Thiền sư báo tin Người sẽ về Seattle dự một Phật sự quan
trọng và muốn mình đi đón Người ở phi trường.” Chị ngừng một giây, đôi mắt vẫn
trong sáng ngày nào chớp lia như nhánh hổ ngươi ngợp gió, hai má đỏ hồng. Chị
nói tiếp, giọng run rẩy: “BH biết không? Mình không lái xa lộ được mà lại không
muốn lỡ cơ hội nên hứa bừa là sẽ đón Ngài theo hẹn. Mình đọc báo tìm người dạy
và học cấp tốc trong ba ngày.” Chị lại ngừng, nén xúc động, rồi tiếp: “Tới hẹn,
mình lái xe ra xa lộ, nói khẽ với lòng có chết cũng đành.” (Nghe chị nói câu
này, tôi thực sự không biết chị có lấy từ ý thơ tương tự của thi sĩ Hồ Dzếnh
hay không? (…Giữa một giờ thiêng tình rất đẹp, Em ạ, yêu
nhau chết cũng đành!)
Câu chuyện tiếp tục:
“Mình tới phi trường còn sớm nên tìm parking đậu xe. Xong rồi tìm tới ga đến của
hành khách và nép mình chờ sau một vách ngăn mỏng. Đến lúc này, mình nhận ra có
quá đông quý vị tăng lữ và Phật tử với biểu ngữ, cờ xí, chắc hẳn đi đón Ngài.
Sợ hãi, thất vọng, mình lùi ra một khoảng khá xa cổng ra của hành khách, biết
rằng không có cơ hội nào được đón Ngài như ước hẹn.”
Im lặng. Nghẹn ngào.
“Sau cùng, mình cũng
thấy được Ngài oai nghiêm, phẩm cách, đi giữa lễ nghi, thậm chí không cả một
ánh mắt đi tìm trong đám đông vây quanh. Mình tức cười nhủ thầm: hóa ra mọi
chuyện như một pho sách mở từng trang và từng chương ở cái trai phòng thanh
tịnh trong ngôi đại tự nổi tiếng ấy và trong cái ngách tủ treo quần áo ẩm hơi
người ở nhà mình, chẳng có chuyện nào thật cả. Xạo sự cho vui thôi! Người đàn
ông thông tuệ cũng ngổn ngang tâm sự trần gian muốn lánh mình trong những bài
thơ đầy đạo vị, rót âm điệu vào lòng mình hằng đêm thanh vắng không hề là vị
cao tăng đang đi những bước chậm giữa đoàn người long trọng chắp tay đón rước
kia, mình đã nằm mơ rồi!”
Cho nên, tôi tự hỏi liệu
có bao nhiêu độc giả, bao nhiêu nhà phê bình văn học đọc và phê phán tài sản
văn chương khá đồ sộ và hung hãn của Túy Hồng mà có thể nhìn ra, nói đúng về
nhân thân chị, định nghĩa bằng cái tình yêu “trong một giờ thiêng” chị cả đời
tìm kiếm, đeo đẳng? Từ lọt lòng đến khôn lớn, chị đã được cả giòng họ, gia
đình, bằng hữu, quê hương, thành phố dạy dỗ, uốn nắn, mách bảo phải sống như
một người suốt đời chăm chỉ, miệt mài, trả những món nợ không vay: học hành,
lấy chồng, đẻ con, làm một cô giáo lương thiện…Tuổi đời qua như những áng mây
buồn, trả xong món nợ đầu tiên, chị bung ra viết như một cách thể hiện mình vô
vọng và đầy thương cảm. Chị gào thét đền bù cho nỗi căm phẫn mãi còn nín lặng
trong đáy lòng chị. May thay, cách sống sót duy nhất Túy Hồng khám phá ra và
giữ được cho riêng mình là một chọn lựa trong tự do tuyệt đối: Tình Yêu.
Sinh thời, có lần nhà
văn Nguyễn Xuân Hoàng nói với tôi và nhiều bạn bè khác của anh, câu này: “Ai đã
đi qua Huế một lần sẽ không thể nào quên.” Túy Hồng không chỉ đi qua Huế một
lần, chị ăn gạo de An Cựu, uống nước sông Hương suốt phần đời thơ ấu và thanh
xuân của chị, mang ơn Huế, nặng tình với Huế vì Huế với tất cả tinh hoa và diễm
lệ, của thiên nhiên, của lịch sử, của con người, dẫu khắc nghiệt, đã cho chị
một linh hồn, một thể phách mà chị rất bằng lòng, rất hãnh diện được có. Không
tầm thường, không nhàm chán, không tàn phai, Huế là tình yêu mãi đẹp, là người
tình không có phiên bản trong trái tim chị cho đến tuổi già, thể nhập khít khao
trong từng ngõ ngách cảm xúc sâu thẳm và bí ẩn của chị, đồng hóa vào chị không
tách lìa.
Nhạc sĩ Văn Cao nghĩ về
Huế, nhớ về Huế như nhớ bồng lai, tiên cảnh. Túy Hồng là chiếc bóng phơ phất
bồng lai, tiên cảnh ấy, là
Thiên Thai! Ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian
Ái ân thiên tiên em ngờ phút
mê cuồng có một lần…
Chị yêu Huế thủy chung.
Chị yêu mình thủy chung. Thủy chung của chị như bông hoa say đắm sắc hương
mình, không chút buồn phiền, ảo não. Thủy chung của chị là thiên thu trong bàng
hoàng một nhịp tim, trong quỵ ngã một bước chân không lần lữa, là hào quang một
đường dao vung lên tuyệt kỹ
“Một ánh dao bay ngàn thuở đẹp
Dù sai hay đúng cũng là hư.” (VHC)
Có thể nói Túy Hồng
không thực sự yêu ai theo cách thế gian yêu nhau. Đàn ông với chị chỉ là duyên
cớ. Tôi nhớ đã đọc được đâu đó một câu của nhà thơ Elizabeth Barrett Browning,
rất thích hợp để mô tả bạn tôi: “I love you not only for what you are, but for
what I am when I am with you.” Yêu với Túy Hồng là bỗng dưng, là hạnh phúc được
thể hiện mình tuyệt đối dù trong phút giây.
Tôi có giữ vài cái vỏ ốc
thật đẹp, nhặt về từ nhiều bãi biển tôi có dịp đi qua. Những cái vỏ ốc trống
trơn, óng ánh, với những đường vân mỹ thuật sóng đưa dạt vào bờ, ong ong tiếng
thở xa xôi của biển không bao giờ ngơi nghỉ. Tôi nhìn thấy bạn tôi như con ốc
lạc loài giữa đại dương mênh mông, một đời dập dềnh, nổi trôi theo sóng nước ba
đào, thân xác nhỏ nhoi gửi lại biển, chỉ còn cái vỏ là chứng tích ngục tù giam
giữ chị xin trả lại nhân gian.
Bùi Bích Hà
Quận Cam, tháng 8/2020
(B L sưu tầm)