(Nguồn: Internet)
..
..
.
10 Vị Đại Đệ Tử Của Đức Phật
.
.
Trong suốt 45 năm giáo hóa, từ Thành đạo cho đến Niết Bàn,
Phật quy tụ xung quanh hào quang của Ngài một số đệ tử cả xuất gia lẫn tại gia.
Trong số này, những bậc xuất sắc ưu tú, chứng được thánh quả A La Hán gồm có
1250 vị. Đặc biệt có 10 vị mệnh danh là Thập Đại Đệ tử, trong 10 vị này mỗi vị
đều có sở trường riêng, sở chứng riêng và đạo hạnh riêng.
.
.
Mười vị Đại Đệ tử của Đức
Phật là :
2 - Ngài Mục Kiền Liên
3 - Ngài Ma Ha Ca Diếp
4 - Ngài A Nậu Đà La
5 - Ngài Tu Bồ Đề
6 - Ngài Phú Lâu Na
7 - Ngài Ca Chiên Diên
8 - Ngài Ưu Ba Ly Tai
9 - Ngài A Nan Đà
10 - Ngài La Hầu La
.
1. Tôn giả XÁ LỢI PHẤT : Trí tuệ đệ nhất.
Ngài luôn luôn tỏ ra
khiêm tốn, tận tụy, nhiệt tình, được chư Tăng thán phục và được Đức Phật khen
là Trí tuệ bậc nhất. Ngài đắc quả A La Hán 4 tuần sau khi xin gia nhập giáo
đoàn.
Xá Lợi Phất là con trong
một gia đình danh giá Bà La Môn ở vùng Ubatissa. Từ nhỏ rất thông tuệ, học
giỏi, được mọi người trọng vọng. Ngài có người bạn thân là Mục Kiền Liên. Cả
hai Ngài là môn đệ xuất sắc của một vị thầy nổi tiếng, đã đạt được những thành
quả tột đỉnh của môn phái ấy nhưng chưa vừa ý nên khi gặp đệ tử Phật ( Ngài
Assaji : A Tháp Bà Trì ) liền nhận ra chánh pháp và quy y Phật.
.
2. Tôn giả MỤC KIỀN LIÊN: Thần thông đệ nhất.
.
2. Tôn giả MỤC KIỀN LIÊN: Thần thông đệ nhất.
.
.
Ngài là con một gia đình
Bà La Môn đanh tiếng. Ngài theo Tôn giả Xá Lợi Phất quy y Phật và sau 7 ngày
đắc quả A La Hán, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Đức Phật trong Định, khi Ngài
đang sống độc cư trong rừng. Ngài được Đức Phật khen và đại chúng công nhận là
Thần thông bậc nhất. Ngài đã nhiều lần thi triển thần thông như phương tiện để
giáo hóa cứu độ mọi người. Ngài cùng với Xá Lợi Phất điều hành và hướng dẫn
Tăng chúng, cũng như độ cho nhiều người chứng đắc Thánh quả. về sau, Ngài bị
phái Ni Kiền Tử hảm hại bằng cách lăn đá làm Ngài bị tử thương. Đức Phật xác
nhận Ngài Mục Kiền Liên đã nhập Niết Bàn ngay tại chỗ thọ nạn, nơi Ngài bỏ thân
tứ đại.
.
3. Tôn giả MA HA CA DIẾP
: Đầu Đà đệ nhất.
.
.
.
Ngài được Đức Thế Tôn
nhiếp hóa trước hai tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, được Thế Tôn cho là
Đầu Đà đệ nhất. Sinh hoạt theo hạnh đầu đà là một lối sinh hoạt cực kỳ đơn giản
nhằm mục đích tịnh hoá tâm hồn, rất thích hợp với những ai thích tu phạn hạnh
như Ngài Ca Diếp. Sau khi xuất gia tu hạnh Đầu Đà trong 8 ngày liền, Ngài đắc
quả A La Hán. Ngài tinh thông con.đường thiền định, nêu gương sáng cho chúng
Tăng về các hạnh : “ Ít muốn, biết đủ, tinh tân, viễn ly ”. Ngài thường độc cư
trong rừng dù tuổi đã cao.
.
4. Tôn giả A NÂU ĐÀ LA
: Thiên nhãn đệ nhất
.
.
.
Ngài được Đức Thế Tôn
khen và đại chúng khâm phục là Thiên nhãn đệ nhất.
Trong tăng chúng Ngài nổi
tiếng là bậc tu hành rất thanh tịnh, không bao giờ bị nữ sắc cám dỗ, vì vậy
được mọi người kính ngưỡng. Duy có một tật nhỏ là tật ưa ngủ gục mỗi khi ngồi
nghe Phật thuyết pháp, từng bị Phật quở trách đôi ba phen. Từ đó Ngài lập hạnh
“không ngủ ” từ đầu hôm đến suốt sáng, từ tản sáng đến chiều đêm, Ngài ngồi mở
to đôi mắt nhìn vào khoảng không, không chớp mắt, cho đến một hôm thì hai mắt
xưng vù rồi bị mù loà.
Chính đức Phật cầm tay
chỉ dạy giúp Ngài may áo và dạy phương pháp tu định để khiến mắt sáng ra, Ngài
thực hành một cách triệt để nên được sáng mắt trở lại và chứng được Thiên nhãn
thông, bất quản xa gần, bất luận trong ngoài, mắt Ngài đều thấy suốt. Phật dùng
chánh pháp phương tiện dạy cho Ngài thể nhập tánh thây viên dung, không lệ
thuộc vào nhãn căn. Ngài chứng đắc pháp này và thấy ba cõi như một quả Amla
được cầm trên tay, được Phật ấn chứng là Thiên nhãn đệ nhất.
.
5. Tôn giả TU BỒ ĐỀ : Giải Không đệ nhất.
Theo truyền thuyết của
kinh sách Đại thừa, lúc Ngài mới sanh, trong gia đình Ngài toàn hiện ra những
triệu chứng “ không ”. Các đồ vật trong nhà, từ kho lẫm, lu vãi... mọi vật biến
đâu mất cả, chỉ thuần tịnh một mùi hương chiên đàn và hào quang sáng soi chấn
động cả ba cõi, không thấy đâu là tường vách giới hạn. Hỏi về ý nghĩa điềm lạ
này thì được thầy tướng bảo rằng đó là điều cực lành. Rồi nhân vì điềm “không”
ấy, nên cha mẹ Ngài mới đặt tên cho Ngài là Tu Bồ Đề, nghĩa là Không Sanh. Lại
cũng có nghĩa là Thiện Cát ( tốt lành ) hay Thiện Hiện ( hiện điềm tốt ).
.
6. Tôn Giả Phú Lâu
Na : Thuyết pháp đệ nhất
.
.
Tôn giả Phú Lâu
Na vốn được gọi là "Phú-lâu-na Di-đa-la-ni-tử". Phú Lâu Na
chỉ là tiếng gọi tắt. Danh hiệu Ngài dài như thế chính là biểu hiện cho Tôn giả
khi thuyết pháp cũng trường mãn vô cùng. Danh xưng của Ngài được dịch sang
tiếng Trung Hoa là "Mãn Từ Tử".
Đức Phật thường ngợi khen
biện tài ngôn luận của Tôn giả trước đại chúng.
"Các ông cũng nên
xưng tán Phú-lâu-na. Ta thường khen ông ấy là bậc nhất trong hạng người thuyết
pháp. Ông ấy thâm nhập biển Phật pháp hay làm lợi ích cho tất cả người đồng tu
học đạo, trừ đức Phật ra, không ai có thể biện bác ngôn luận với ông.
.
7. Tôn giả CA CHIÊN DIÊN
: Luận Nghị đệ nhất.
.
Ngài có biệt tài dùng lời
nói rất đơn giản khiến những ai vấn nạn Ngài đều phải thần phục. Trong suốt
cuộc đời hành hoá, nhờ tài nghị luận xảo diệu, Ngài đã cảm hoá được rất nhiều
người, khiến họ tỉnh ngộ trở về với Tam bảo, sống một đời sống thanh thản an
vui.
.
8. Tôn giả ƯU BA
LY : Trì giới đệ nhất
.
.
.
Ưu Ba Ly vốn thuộc giai
cấp nô lệ Thủ Đà La, xuất thân làm nghề thợ cạo tóc, hầu hạ trong vương cung.
Ngày Phật về thăm Ca Tỳ La lần đầu tiên và chấp thuận cho các vương tử xuất
gia, Ưu Ba Ly tủi hổ cho phận mình sanh ra trong chốn hạ tiện, ở thế gian làm
thân nô lệ đã đành, muốn lìa thế gian đi tu cũng không được phép. Ngài là người
nô lệ đầu tiên được Phật cho xuất gia, thu nhận vào tăng đoàn. Xuất gia tu
thiền sau một thời gian ngắn Ngài chứng quả A La Hán.
Ngài được Đức Phật cho là
đệ nhất Trì giới và được giao việc xử lý và tuyên luật.
.
9. Tôn giả A NAN : Đa
Văn đệ nhất
.
.
.
Ngài là em họ Đức Phật,
xuất gia khi Phật về thăm hoàng cung, Ngài là vị tỳ kheo đệ nhất về 5 phương
diện : Đa văn, cảnh giác, sức khỏe đi bộ, lòng kiên trì và hầu hạ chu đáo. Được
thánh chúng đề nghị làm thị giả Đức Phật khi Đức Phật được 56 tuổi. A Nan hoan
hỷ chấp thuận với điều kiện : Thế Tôn từ chối 4 việc và chấp thuận 4 việc :
- Từ chối : không cho tôn
giả y, đồ ăn, phồng ở riêng và mời ăn.
- Chấp thuận : Thế Tôn
cho phép nếu Tôn giả đươc thí chủ mời đi thọ trai. Nếu có người từ xa đến xin ý
kiến, Thế Tôn cho phép khi A Nan giới thiệu. Thế Tôn cho A Nan yết kiến khi
Ngài gặp điều khó xử. Thế Tôn giảng lại những giáo lý cho ; Ngài, trong những
lúc A Nan vắng mặt.
.
10. Tôn giả LA HẦU LA
: Mật hạnh đệ nhất
.
.
.
Ngài là con của Thái tử
Tất Đạt Đa và công chúa Da Du Đà La. Khi về thăm quê lần đầu tiên, Phật phương
tiện tìm cách đưa La Hầu La đi xuất gia và giao cho Xá Lợi Phất dạy bảo.
Được Phật và Xá Lợi Phất
từ mẫn giáo hoá, tập khí cương cường của giòng máu vương giả trong người La Hầu
La mỗi ngày mỗi lạt phai và tánh tình lần lần trở nên ôn hoà nhu thuận.
Ngài nghiêm trì giới
luật, tinh tấn đạo tâm, quyết luyện mật hạnh. Sau một thời gian chăm chú luyện
mật hạnh và từ câu nói đơn giản của Phật “ Hãy nhìn vào vạn tượng sum la kia,
rồi nhìn lui vào tâm niệm và thân thể của mình, để xem có gì đứng yên một chỗ
không ? Vô thường ! Vô thường tất cả ! Nên biết như thế và đừng để cho tâm chấp
trước dính mắc vào đâu cả ”. Chiêm nghiệm lời Phật dạy, Ngài đã chứng được tận
cùng của Mật hạnh và được Phật khen là Mật hạnh đệ nhất.
.
Mười vị Đại Đệ tử của
Phật là 10 tấm gương sáng về các hạnh nguyện, đức tính và năng lực đặc biệt.
.
(H P sưu tầm)
.
.
(H P sưu tầm)
.
.
(Nguồn: Internet)
(Nguồn: Internet)
.