NÀNG
TIÊN CÁ
(tranh Lê Ký Thương).
.Nàng Tiên Cá
.
* Tác giả: SELMA LAGERLOF (1858-1940) - N ữ Văn sĩ Thụy Điển, giải Nobel.
* Tác giả: SELMA LAGERLOF (1858-1940) - N ữ Văn sĩ Thụy Điển, giải Nobel.
* Người dịch: LÊ KÝ THƯƠNG
Một hôm anh ngư dân sống trên đảo Liding,
cách xa Salt Fiord, chèo thuyền đến hồ Lake Maler, vì mải mê đánh cá quên cả
thời gian quay thuyền về nhà. Lúc bấy giờ trời đã tối, điều tốt nhất anh có thể
làm là neo thuyền trên một đảo nhỏ và chờ đêm xuống, và ánh trăng sẽ hiện ra.
.
.
Cuối
hè, khí trời ấm áp. Anh đẩy thuyền lên bờ, nằm cạnh thuyền, đầu kê lên một
phiến đá rồi ngủ thiếp. Khi anh thức giấc, trăng đã lên tự lúc nào, sáng rực
như ban ngày.
.
.
Anh vùng dậy, định đẩy thuyền xuống nước thì thấy trên dòng nước một mảng
màu đen lóm đóm trắng đang di chuyển. Một đàn hải cẩu bơi nhanh về phía đảo.
Khi thấy chúng trườn lên bờ, anh cuối xuống cầm lấy cái xiên luôn mang theo
trên thuyền. Nhưng lúc đứng lên, anh chẳng thấy con hải cẩu nào, thay vào đó, đứng
trên bãi cát là một bầy tiên trẻ đẹp mê hồn, mặc váy sa-tanh dài màu xanh lục,
đầu đội vương miện ngọc trai. Anh ngư dân hiểu rằng đó là những nàng tiên cá, sống
trên các đảo đá xa, đã ngụy trang thành những những con hải cẩu, bơi đến hòn đảo
xanh tươi này để thưởng ngoạn ánh trăng đêm.
.
Anh
cẩn thận để cái xiên xuống thuyền, và khi những nàng tiên cá xinh đẹp kia đang
vui chơi trên đảo, anh lén theo họ để quan sát. Anh đã nghe kể rằng những nàng
tiên cá đẹp và quyến rũ đến nỗi không một ai trông thấy họ mà không bị mê hoặc.
Quả điều này không ngoa.
.
Anh
đứng dưới bóng cây nhìn họ nhảy múa một hồi rồi bước xuống bờ biển, nhặt lấy
một tấm da hải cẩu ở gần đó rồi giấu dưới một phiến đá. Sau đó, anh trở lại mạn
thuyền và giả vờ ngủ.
.
Chẳng
mấy chốc, anh nhìn thấy những nàng tiên cá xinh đẹp chạy xuống bờ cát để mặc
những chiếc áo da hải cẩu của họ. Thoạt đầu, tất cả đều vui đùa ca hát, nhưng
đến khi biết một trong những người bạn đồng hội đồng thuyền của họ không tìm
thấy chiếc áo da của mình, họ lại khóc lóc than van. Mọi người đều chạy ngược
chạy xuôi đi tìm chiếc áo da cho bạn, nhưng chẳng thấy tung tích gì. Lúc bấy
giờ, họ nhận ra trời sắp sáng, không thể nán lại lâu hơn, tất cả đều nhảy xuống
nước và bơi đi, để lại người đẹp mất áo ngồi trên bờ than khóc.
Anh
ngư dân cảm thấy buồn thương cho nàng, dĩ nhiên rồi, nhưng anh ta vẫn ép mình
nằm yên chờ sáng. Sau đó, anh đứng lên, đẩy thuyền xuống nước, rồi bước đến chỗ
nàng ngồi, giả vờ như tình cờ trông thấy nàng trước khi nâng mái chèo bơi đi.
.
“Cô
là ai?” anh lên tiếng. “Cô bị đắm tàu phải không?”
.
Nàng
chạy đến bên anh và hỏi anh có thấy mảnh áo da của mình ở đâu không. Anh làm bộ
chẳng hiểu nàng đang nói gì. Nàng lại ngồi xuống và khóc. Lúc này anh quyết
định đưa nàng xuống thuyền. “Hãy về nhà tôi,” anh nói. “Mẹ tôi chăm sóc cô. Cô
không thể sống trên hòn đảo này, vì ở đây chẳng có thức ăn mà cũng chẳng có chỗ
trú thân!”. Giọng anh thuyết phục đến nỗi nàng phải bước theo anh xuống thuyền.
.
Cả
hai mẹ con chàng ngư dân đều tử tế với nàng tiên cá đáng thương, và dường như
nàng đã tìm thấy hạnh phúc khi sống chung với họ. Càng ngày nàng càng mãn
nguyện với cuộc sống ở đây, luôn luôn đỡ đần công việc với mẹ chàng ngư dân,
hiếu thảo như những người con gái sống trên đảo, chỉ có điều nàng đẹp hơn họ
nhiều. Một hôm, anh ngư dân ngỏ ý kết hôn với nàng. Nàng không từ chối, đồng ý
ngay.
.
Lễ
cưới được chuẩn bị. Nàng tiên cá ăn mặc như cô dâu trong bộ váy màu xanh lục và
đội chiếc vương miện ngọc trai sáng lung linh giống như lần đầu tiên anh thấy
nàng trên đảo. Lúc đó, trên hòn đảo này chẳng có nhà thờ mà cũng không có linh
mục, vì vậy họ cùng nhau xuống thuyền chèo đến ngôi nhà thờ gần đó để làm lễ
cưới.
.
Anh
ngư dân cùng nàng tiên cá và mẹ đi trên chiếc thuyền của anh. Anh chèo nhanh
đến nỗi bỏ xa những chiếc thuyền khác. Khi anh nhìn ra hòn đảo nhỏ, nơi anh gặp
nàng lần đầu, anh không khỏi bật cười.
.
“Anh
cười gì vậy?” Nàng hỏi.
.
“Ồ,
anh đang nghĩ đến cái đêm mà anh giấu tấm da hải cẩu của em”, anh ngư
dân trả lời vì anh tin chắc rằng đến lúc này mình không cần dấu diếm
điều gì với nàng nữa.
“Anh
nói sao?”, nàng ngạc nhiên hỏi. “Em nghĩ chắc đêm qua anh đã có một giấc mơ
khác thường”.
“Nếu
anh cho em thấy tấm da hải cẩu của em có thể em sẽ tin anh”, anh ngư dân cười,
nhanh chóng quay mũi thuyền về phía đảo
nhỏ.
Họ
bước lên bờ và anh lấy tấm da giấu dưới phiến đá lên.
Trong
nháy mắt, nàng tiên cá nhìn tấm da hải cẩu rồi chụp lấy và trồng lên đầu. Tấm
da bó sát người nàng, như đã tìm lại được sinh khí, và bất thình lình nàng
phóng mình xuống dòng nước.
Chú
rể thấy nàng bơi ra xa vội lao theo, nhưng không thể đuổi kịp. Khi biết không
cách nào để bắt nàng quay lại, trong nỗi thất vọng, anh chụp cây xiên phóng đi.
Kết quả nằm ngoài dự tính của anh, nàng tiên cá đáng thương hét lên một tiếng
thảm khốc, rồi chìm sâu trong lòng nước.
Anh
ngư dân đứng trên bờ chờ nàng hiện lên lại. Anh nhìn thấy làn nước quanh mình
khoác một màu phơn phớt sáng, mang một vẻ đẹp mà trước đó anh chưa từng thấy.
Một màu hồng phấn lung linh như màu ruột sò.
Khi
làn nước lấp lánh vỗ vào bờ, anh ngư dân nghĩ rằng nó cũng được biến chuyển,
bắt đầu đơm hoa và thoang thoảng hương thơm. Một chút ánh sáng nhẹ nhàng lan
tỏa trên những đóa hoa và mang một vẻ đẹp mà trước đó chưa hề có.
Anh
hiểu rằng tất cả những điều này chỉ là lẽ vô thường. Với những nàng tiên cá
cũng vậy: kẻ nào đã được ngắm nhìn họ đều phải công nhận rằng họ tuyệt đẹp, và
chính dòng máu của nàng tiên cá kia đã hòa quyện trong nước thấm đẫm bãi bờ, đã
khiến cho vẻ đẹp được nhân đôi. Tất cả những ai gặp họ, yêu họ, và thương cảm
cho họ đều phải biết rằng đây là di sản từ nàng tiên cá để lại.
LÊ KÝ THƯƠNG dịch
(post lại)
(post lại)
.
THỜI THƠ ẤU
(Tranh Lê Ký Thương)
.