Trương Mỹ-Vân (ĐK67) sưu tầm.
(Sau bài post này,
TRANGNHADONGKHANH2 sẽ tạm ngưng một thời gian. Hẹn gặp lại.)
..
(Nguồn: Internet)
.
Hoa Phi Hoa
Thơ của Bạch Cư Dị
Thơ của Bạch Cư Dị
Hoa phi hoa,
Vụ phi vụ.
Dạ bán lai,
Thiên minh khứ.
Lai như xuân mộng kỷ đa thời,
Khứ tự triêu vân vô mịch xứ!
.
Vụ phi vụ.
Dạ bán lai,
Thiên minh khứ.
Lai như xuân mộng kỷ đa thời,
Khứ tự triêu vân vô mịch xứ!
.
Dịch nghĩa
Rằng hoa, thì không phải là
hoa,
Rằng mây, thì không phải là mây.
Nửa đêm tới,
Sáng hôm sau lại đi mất.
Khi đến thì như giấc mộng xuân không được bao lâu,
Khi đi thì như mây trời không biết đâu mà tìm lại được.
Rằng mây, thì không phải là mây.
Nửa đêm tới,
Sáng hôm sau lại đi mất.
Khi đến thì như giấc mộng xuân không được bao lâu,
Khi đi thì như mây trời không biết đâu mà tìm lại được.
Bản dịch của HẢI ĐÀ
Như hoa mà chẳng phải hoa
Giống mù mà chẳng phải là mù
sương
Nửa đêm chợt đến lạ thường
Sớm mai thức giấc lên đường lại
đi
Đến như thoáng mộng xuân thì
Rồi như mây sớm lại đi phương
nào?
Bản dịch của LIÊU QUỐC NHĨ
Chẳng phải là hoa, chẳng phải
sương
Nửa khuya em đến, sáng em về
Đến như giấc mộng xuân không
đợi
Đi tựa mây trời không định nơi.
Bốn câu thơ đầu của bài thơ nổi
tiếng TỲ BÀ HÀNH do Phan Huy Thực dịch:
Bến Tầm Dương, canh khuya đưa
khách.
Quạnh hơi thu, lau lách đìu
hiu.
Người xuống ngựa, khách dừng
chèo,
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều
trúc ty.
Tiểu sử Bạch Cư Dị
Bạch Cư Dị (chữ Hán: 白居易; 772 - 846), biểu tự Lạc Thiên (樂天), hiệu Hương Sơn cư sĩ (香山居士), Túy ngâm tiên sinh(醉吟先生) hay Quảng Đại giáo hóa chủ (廣大教化主), là nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng thời nhà Đường. Ông là một trong những nhà
thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Đối với một số người yêu thơ văn
thì người ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch và Đỗ Phủ.
Những năm đầu, ông cùng Nguyên Chẩn ngâm thơ, uống rượu, được
người đời gọi là Nguyên Bạch (元白). Sau này, khi Nguyên Chẩn
mất, lại cùng Lưu Vũ Tích, hợp thành cặp Lưu Bạch (劉白). Đường Tuyên Tông gọi ông là Thi Tiên (詩仙)
Ông chủ trương đổi mới thơ ca.
Cùng với Nguyên Chẩn, Trương Tịch, Vương Kiến, ông chủ trương thơ
phải gắn bó với đời sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn
chương hình thức. Ông nói: "Làm văn phải vì
thời thế mà làm... Làm thơ phải vì thực tại mà viết", mục đích của văn
chương là phải xem xét chính trị mà bổ khuyết, diễn đạt cho được tình cảm của
nhân dân. Thơ của ông lan truyền trong dân gian, thậm chí lan sang ngoại quốc
như Tân La, Nhật Bản, có ảnh hưởng rất
lớn.
.
Tác phẩm lớn nhất của ông phải
kể đến Trường hận ca, Tỳ bà hành, Tần trung ngâm,.. và Dữ nguyên cửu thư
Trương Mỹ-Vân (ĐK67) sưu tầm