Trương Mỹ-Vân (ĐK 67) sưu tầm
.
(Nguồn: Internet)
.
Cổ Thi: Thơ Lý Bạch
Thể thơ: Ngũ Ngôn Cổ Phong
Thời kỳ: Thịnh Đường
.
Sinh giả vi quá khách,
Tử giả vi quy nhân.
Thiên địa nhất nghịch lữ,
Đồng bi vạn cổ trần.
Nguyệt thố không đảo dược,
Phù tang dĩ thành tân.
Bạch cốt tịch vô ngôn,
Thanh tùng khởi tri xuân.
Tiền hậu cánh thán ức,
Phù vinh hà túc trân!
.
Tử giả vi quy nhân.
Thiên địa nhất nghịch lữ,
Đồng bi vạn cổ trần.
Nguyệt thố không đảo dược,
Phù tang dĩ thành tân.
Bạch cốt tịch vô ngôn,
Thanh tùng khởi tri xuân.
Tiền hậu cánh thán ức,
Phù vinh hà túc trân!
.
Bản dịch của Hải Đà
Sống như khách lạ qua đường
Mai kia nằm
xuống cố hương muốn về
Đất trời quán
trọ lê thê
Muôn đời cát
bụi não nề thương tang
Thỏ nghiền
thuốc mãi trong trăng
Cành dâu xanh
đã võ vàng củi khô
Lạnh lùng
xương trắng co ro
Thông xanh nào
có ước mơ xuân về
Trước sau đời
ngẫm tái tê
Vinh hoa phú
quí có gì đáng đâu!
Bản dịch của Lão Nông
.
Sống ta là khách qua đường
Còn khi đã
chết quê hương tìm về
Đất trời quán
trọ lê thê
Trần gian cát
bụi não nề xót thương
Cung trăng thỏ
nghiện thuốc trường
Dâu xanh tàn
tạ cây dường củi thâm
Xương màu
trắng xóa lặng câm
Rừng thông
xanh lá tưởng nhầm mùa xuân
Trước sau than
thở ngàn lần
Công danh phú
quý phù vân đáng gì!
.
(Nguồn: Internet)
.
Lý Bạch (chữ Hán: 李白; 701 - 762), biểu tự Thái Bạch (太白), hiệu Thanh Liên cư sĩ (青莲居士), là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa
lãng mạn danh tiếng nhất thời Thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung.
Suốt cuộc đời của mình, ông được tán dương là một thiên tài về thi ca, người đã mở ra
một giai đoạn hưng thịnh của thơ Đường. Ông cùng người bạn Đỗ Phủ trở thành hai biểu tượng
thi văn lỗi lạc không chỉ trong phạm vi nhà Đường, mà còn trong toàn bộ lịch sử
Trung Hoa, thậm chí toàn bộ khu vực Đông Á đồng văn. Do sự lỗi lạc của mình,
ông được hậu bối tôn làm Thi Tiên (詩仙) hay Thi Hiệp (詩俠). Giới thi nhân bấy giờ thì rất kính nể tài uống rượu làm thơ bẩm sinh,
nên gọi Lý Bạch là Tửu Tiên (酒仙) hay Trích Tiên Nhân (谪仙人). Hạ Tri Chương gọi ông là Thiên Thượng Trích Tiên (天上謫仙).
Ông đã viết cả ngàn bài thơ bất hủ. Hơn ngàn bài thơ của ông được tổng hợp
lại trong tập Hà Nhạc Anh Linh tập (河岳英靈集), một tuyển tập thơ rất đồ sộ thời Vãn Đường do Ân Phan (殷璠) chủ biên vào năm 753, và hơn 43 bài của ông được ghi trong Đường Thi Tam Bách Thủ (唐诗三百首) được biên bởi Tôn Thù (孫洙), một học giả thời nhà Thanh. Vào thời đại của ông, thơ của ông đã xuất hiện các bản dịch tại phương
Tây, chủ đề của ông nhấn mạnh tán dương mối quan hệ bạn bè, sự thần bí của
thiên nhiên, tâm trạng tĩnh mịch và thú vui uống rượu rất đặc trưng của ông.
Cuộc đời của ông đi vào truyền thuyết, với phong cách yêu rượu hiếm có,
những truyện ngụ
ngôn và truyền thuyết về tinh thần trượng nghĩa, cũng như điển tích nổi tiếng
về việc ông đã chết đuối khi nhảy khỏi thuyền để bắt cái bóng phản chiếu của
mặt trăng.
.