(Truyện dịch sưu tầm)
..
..
Truyện dịch "CON CHIM TRỐN TUYẾT" từ trang BLOG ĐK67
(posted vào năm 2009).
..
..
CON CHIM TRỐN TUYẾT
(THE SNOW GOOSE)
..
TÁC GIẢ: PAUL
GALLICO
(Bản dịch của Trần Phong Giao và Hoàng Ưng)
..
Cánh đồng lầy mênh mông chạy dọc theo theo
bờ duyên hải Essex, giữa thôn Chelmbury và Wickaeldroth, một bến chài của dân
Saxon ngày xưa. Đây là miền hoang đại cuối cùng còn sót lại tại nước Anh, một
miền sình lầy, hẻo lánh đầy cỏ lác và lau sậy với những bãi cỏ ngợp nước trải
dài tới bên bờ những ruộng muối lớn. Những bãi bùn non và những vũng nước thuỷ
triều sát bên đại dương đầy sóng gió.
Những đường mương rạch
do nước thuỷ triều xẻ vào nội đại và những nhánh sông nhỏ lượn uốn quanh co
trước khi tuôn ra biển cả, qua miền lầy lội, mặt đất bập bềnh lên xuống như hô
hấp theo nhịp thuỷ triều lên xuống mỗi ngày. Cảnh tượng vắng vẻ, cho ta cảm
giác càng thêm quạnh hiu bởi tiếng kêu, tiếng gọi của loài dã điểu làm tổ trong
những đầm lầy hay ruộng muối - những con ngỗng trời, những con hải âu, vịt
trời, le le, cò lửa, cò hương mò mẫm tìm mồi trên những hồ nước mặn. Còn sự
hiện diện của loài người thì không có, không thấy một ai, hiếm lắm mới thấy một
người lưới chim hoặc vài thổ dân mò sò, tới đó tiếp tục làm cái nghề đã cũ mèm
ngay từ hồi những người Normand đặt chân lên miền Hasting.
..
Màu xám, màu xanh và
màu xanh lá cây nhạt là những màu nổi bật, bởi vì suốt trong những mùa đông dài
dằng dặc, nhiều vũng nước trên bãi biển, trên đầm lầy phản chiếu ánh sáng lạnh
lẽo và xám đen của bầu trời. Nhưng đôi khi, vào buổi bình minh hoặc lúc hoàng
hôn, màu trời sắc đất bực lên như ánh lửa vàng, lửa đỏ.
..
Sát bên một nhánh
quanh co của con sông Aelder nhỏ bé có một quãng đê thuộc bức trường thành trấn
giữ bờ biển ngày xưa, khúc đê nhẵn và kiên cố, không một kẽ hở, đó là thành luỹ
bảo vệ đất liền chống lại sự xâm lấn của biển cả. Con đê chạy sâu vào tận hồ
muối, sâu vào đất liền tới ba dặm kể từ eo biển nước Anh, rồi từ đó rẽ theo
hướng Bắc. Chính ở góc đó mặt đê bị sóng biển nhồi vỗ đã rạn vỡ tan tành. Con
đê bị chọc thủng và qua chỗ hổng, biển cả như con thú đói ùa vào tranh giành
đất đai, cả bức trường thành và cả những vật gì còn lại nơi đó.
..
Lúc thuỷ triều rút,
trơ ra những tảng đá vỡ màu xám đen, vết tích của ngọn hải đăng hoang phế, nằm
phơi trên mặt nước, lác đác quanh đó, tựa như những cái phao cột xác chết, rải
rác đầu những cây cọc của của một hàng rào đã bị lún xuống. Ngày xưa ngọn hải
đăng nhô cao trên biển và ánh đèn đã từng soi sáng dọc miền duyên hải Essex. Theo
dòng năm tháng, sóng biển soi đất lở dần, ngọn hải đăng hoá thành vô dụng.
..
Gần đây nó lại được dùng làm nơi trú ngụ của loài người. Có một người đàn ông cô độc đến đó ở. Thân hình méo mó, nhưng tâm hồn anh tràn đầy tình thương đối với các loài hoang thú bị săn đuổi. Trông anh thật xấu xí nhưng chính anh lại là người tạo ra cái đẹp. Câu chuyện sau đây thuật về chính chàng trai đó, và một cô bé đã tìm hiểu được chàng, tìm hiểu được một vẻ đẹp nào đó tiềm ẩn bên trong cái thân hình thô kệch của chàng.
..
Gần đây nó lại được dùng làm nơi trú ngụ của loài người. Có một người đàn ông cô độc đến đó ở. Thân hình méo mó, nhưng tâm hồn anh tràn đầy tình thương đối với các loài hoang thú bị săn đuổi. Trông anh thật xấu xí nhưng chính anh lại là người tạo ra cái đẹp. Câu chuyện sau đây thuật về chính chàng trai đó, và một cô bé đã tìm hiểu được chàng, tìm hiểu được một vẻ đẹp nào đó tiềm ẩn bên trong cái thân hình thô kệch của chàng.
....
Đây không phải loại
truyện có bố cục với những tình tiết nhịp nhàng hấp dẫn. Cốt truyện được thu
góp từ nhiều nguồn và từ nhiều người, một phần dưới hình thức những mẩu chuyện
vụn vặt của chính những người đã chứng kiến những cảnh tượng khốc liệt và kỳ
lạ. Rốt cuộc, biển cả đã trở lại nguyên vị, bao phủ lên nơi chiến trận lớp sóng
nhấp nhô, và bóng chim trắng khổng lồ, hai đầu cánh đốm đen, cánh chim đã từng
chứng kiến sự việc từ đầu đến cuối, cũng đã quay về miền yên lặng huyền bí,
cóng lạnh của vùng Bắc cực, là nơi mà từ đó nó đã bay đi.
...
Vào cuối mùa xuân năm
1930, Philip Rhayader tìm đến ngọn hải đăng hoang phế ở cuối sông Aelder. Chàng
mua vọng đèn bỏ hoang cùng nhiều mẫu đất lầy và đồng cỏ nước mặn quanh đó.
..
Chàng sống cô đơn và
cặm cụi làm việc một mình quanh năm. Chàng là hoạ sĩ chuyên vẽ chim và phong
cảnh thiên nhiên. Vì nhiều lí do, chàng đã trốn lánh khỏi xã hội loài người.
Người ta có thể tìm ra một vài trong số những lí do đó, trong những chuyến
chàng xuống làng Chelmbury, nửa tháng một kỳ để mua thực phẩm, phơi bày tấm
thân lệch và bộ mặt đen đúa của chàng dưới những cái nhìn soi mói của dân làng.
Bởi vì chàng gù lưng và cánh tay trái có tật teo đi, cổ tay khoèo lại tựa như
móng của loài chim.
...
...
Ít lâu sau dân làng
dần quen với hình dáng kỳ quái của chàng, nhỏ nhung đầy sức lực, quen dần với
chiếc đầu vững chắc, tóc đen, râu rậm hơi tụt xuống phía dưới chiếc gò bí hiểm
mọc trên lưng chàng, quen dần với đôi mắt sáng ngời, cánh tay hình móng chim,
và đối với họ chàng trở thành “anh chàng vẽ tranh kỳ quái sống ở hải đăng”.
...
...
Hình thù quái dị
thường làm người có tật hận thù loài người. Nhưng Rhayader không hề thù hận!
Chàng thương yêu tha thiết con người, mọi loài muông thú và cảnh vật thiên
nhiên. Tâm hồn chàng tràn đầy lòng thương xót và sự cảm thông. Chàng đã làm chủ
được điều bất hạnh, nhưng chàng không sao chế ngự nổi sự hắt hủi phải gánh
chịu, sự hắt hủi gây ra bởi hình thù quái dị của chàng. Sự kiện dồn chàng đến
thế ẩn dật là sự thất bại không tìm thấy nơi đâu sự đền đáp lại mối cảm tình
nồng nàn từ nội tâm chàng tuôn trào ra. Phụ nữ lẩn tránh chàng. Còn đàn ông có
thể đối tốt với chàng , nếu họ hiểu chàng. Nhưng chỉ nghĩ rằng người đó phải cố
gắng mới hiểu được chàng cũng khiến chàng tủi hổ và cũng đủ để chàng lánh xa kẻ
ấy.
...
Năm chàng đến vùng
đồng lầy chàng đã hai mưoi bảy tuổi. Chàng đã đi du lịch khá nhiều nơi và đã
chiến đấu một cách anh dũng trước khi đi đến quyết định rút lui ra khỏi cái thế
giới mà chàng không có chỗ đứng như những người đàn ông khác. Ngoài sự nhạy cảm
của người nghệ sĩ và sự hiền dịu đầy phụ nữ tính chứa chất trong lồng ngực căng
phồng, chàng cũng đàn ông như ai.
...
Trong cuộc sống ẩn
dật, chàng còn có chim chóc, hội hoạ và cánh thuyền buồm. Chàng có một chiếc
thuyền dài mười sáu bộ, mà chàng sử dụng rất tài tình. Những lúc một mình,
không bị ai dòm ngó xét nét, chàng điều khiển nó rất khéo léo bằng bàn tay có
tật, chàng cũng thường vận dụng đến hai hàm răng vững chắc để điều chỉnh những
cánh buồm bập bùng khi gặp cơn gió chướng.
...
Chàng thường thả thuyền
dọc theo con lạch hay chạy ra khơi, mỗi lần chàng đi tới mấy ngày liền, tìm
kiếm những loài chim mới để chụp ảnh hay vẽ phác và chàng cũng lưới được chim
khá thiện nghệ để tăng thêm cho bầy hoang điểu mà chàng thu thập về nuôi trong
chiếc chuồng dựng bên phòng vẽ vốn là trung tâm ở ẩn của chàng.
...
Chàng không hề
bắn chim bao giờ và chàng không chịu cho những người săn chim lại gần khu vực
chàng ở. Chàng là bạn thân của mọi loài chim hoang dã và chúng cũng đền đáp lại
chàng bằng tình thân hữu.
...
Thuần thục trong khu
vườn nhà chàng có giống ngỗng hoang hàng năm cứ đến tháng Mười lại từ miền
Băng-đảo và từ quần đảo Spitbergen bay dọc duyên hải mà xuống, từng bầy lớp rợp
trời và thinh không rào rào tiếng cánh vỗ mỗi khi chúng bay ngang - những con ngỗng
thân lông nâu, chân mầu hồng, ngực lông trắng với những chiếc cổ lông đen và bộ
mặt ngộ nghĩnh, những con hải âu lông trắng ngực có sọc đen và nhiều loại vịt
trời, le le, mòng két, mòng đốc…
...
Vài con được xén lông
cánh ở lại làm chim hiệu và mỗi đầu mùa đông chúng sẽ nhử những loài hoang điểu
dừng cánh nơi đây là chỗ trú ẩn an toàn và sẽ có miếng ăn.
....
Hàng trăm con đã đến
và ở với chàng suốt mùa đông lạnh buốt từ tháng Mười cho mãi tới đầu xuân, khi
chúng lại di chuyển về phương Bắc, trở về đất tổ của chúng, gần bên những vòm
băng đá.
....
Rhayader thấy mãn
nguyện khi biết rằng dù cho bão táp có dập vùi, sự lạnh buốt có nghiệt ngã và
mồi ăn có khan hiếm hay những cây súng lớn mũi nhọn của những người thợ săn đeo
túi đựng thú ở xa có nổ, thì những con chim của chàng vẫn bình an - những con
chim mà chàng đã tụ tập vào nơi an toàn dưới sự bảo trợ của đôi cánh tay và con
tim chàng, những con chim hoang dã hiểu biết và đã đặt lòng tin cậy nơi chàng.
....
Vào xuân chúng sẽ đáp
lại tiếng gọi của quê hương miền bắc, nhưng sang thu chúng sẽ trở lại, trở lại
kêu la rối rít, tru tréo om sòm, huyên náo cả vòm trời thu muộn, lượn quanh
ngọn hải đăng xưa cũ rồi cùng hạ cánh xuống gần đấy để lại đóng vai khách quý
của chàng - những con chim mà chàng còn nhớ rõ là đã nuôi chúng từ năm trước.
.....
Và điều này khiến
Rhayader sung sướng, bởi vì chàng biết rằng ẩn bên trong chúng có mầm mống tri
giác về sự có mặt và nơi ẩn náu an toàn của chàng, rằng sự tri giác này đã tham
dự vào cuộc đời chúng để mỗi khi bầu trời trở xám và gió bấc thổi lộng chúng sẽ
tìm lại với chàng không hề lầm lẫn.
....
Ngoài ra chàng để hết
tâm trí vào việc vẽ lại cảnh vật nơi chàng đang sống cùng những sinh vật trong
miền. Không có nhiều tranh của Rhayader ngoài thị trường. Chàng say sưa giữ
lại, chồng chất chúng trong hải đăng, và xếp đống ở những tầng trên có tới hàng
trăm bức. Chàng không hài lòng về chúng, vì người nghệ sĩ vốn không mấy khi mãn
nguyện về những gì mình sáng tạo.
.....
Nhưng vài bức đến tay
người thưởng ngoạn đều là những kiệt tác, tràn ngập nguồn sáng và màu sắc từ
mặt nước loáng lên, từ những cánh chim bay rung động toả xuống, từ sự gắng gỏi
mãnh liệt của những cánh chim bay ngược luồng gió sớm mai đang thổi rạp những
ngọn lau lớn xuống. Chàng diễn tả vẻ cô tịch và bầu khí lạnh đượm vị muối, sự
vĩnh cửu, vẻ thiên thu của cánh đồng lầy, những sinh vật hoang dã, những đàn
chim bay trong bình minh, hoặc thảng thốt vút lên bầu trời và những bóng chim
xoải cánh bay trong đêm lẩn trốn ánh trăng.
....
Vào một buổi chiều
tháng Một, ba năm sau khi Rhayader đến ở vùng Đồng lầy, có một cô bé lại gần
phòng vẽ trong hải đăng, qua lối bờ đê. Hai tay cô ôm khư khư một gói nặng.
....
Cô bé trạc mười hai
tuổi, mảnh mai, lem luốc, lo lắng và nhút nhát như một con chim, nhưng dưới vẻ
lọ lem ấy cô ta đẹp kỳ lạ như một nàng tiên của vùng Đồng lầy. Cô là giống
người Saxon thuần túy, to xương, da trắng mịn, với một chiếc đầu còn lớn hơn so
với thân hình và đôi mắt thăm thẳm màu tím sẫm.
...
Cô bé vô cùng khiếp sợ
người đàn ông xấu xí mà cô phải đến gặp, vì một huyền thoại về Rhayader đã bắt
đầu hình thành, và những người thổ dân ưa săn bắn đâm ra thù ghét chàng vì
chàng đã cản trở môn thể thao ưa thích của họ.
...
Nhưng vượt trên nỗi sợ
hãi ấy là tình cảnh nguy khốn của sinh vật mà em đang ấp ủ trên tay. Trong trái
tim bé nhỏ của em, đã gắn sâu sự hiểu biết, nhờ nghe người ta đồn đãi quanh
vùng, rằng con ngáo ộp sống trong hải đăng có bùa phép chữa lành những thú vật
bị thương.
...
Trước đó chưa bao giờ
cô bé nhìn thấy Rhayader và cô suýt hoảng hốt bỏ chạy trước bóng dáng chàng
xuất hiện nơi khung cửa phòng vẽ, khi nghe tiếng chân người lại gần - một sự
hiện hình dễ sợ với chiếc đầu bù xù và bộ râu đen, chiếc lưng gù buồn thảm và
cánh tay khoèo hình móng chim.
....
Cô bé đứng sững lại,
nhướng mắt nhìn chằm chặp hơi sẵng như một con chim nhút nhát dưới đồng lầy sẵn
sàng cất cánh bay xa.
.....
Nhưng khi chàng
lên tiếng, giọng chàng thật trầm và thân thiện :
“Có chuyện gì đấy em?”
“Có chuyện gì đấy em?”
...
Cô bé vẫn không
bớt sợ hãi, rụt rè bước tới. Vật mà cô bé ôm trong cánh tay là một con chim lớn
màu trắng, con vật nằm bất động. Có những vệt máu trên bộ lông trắng và trên
chiếc áo của cô bé nơi mảnh vải dùng để lót con chim.
Cô bé đặt con chim vào đôi cánh tay chàng.
Cô bé đặt con chim vào đôi cánh tay chàng.
...
“Thưa ông, em
bắt gặp nó, nó bị thương. Nó còn sống, phải không ông?”
...
“Đúng. Đúng đấy,
tôi cũng nghĩ vậy. vào đây, vào đây em”.
...
Rhayder mang con chim
vào trong nhà, đặt nó lên bàn, và con vật yếu đuối cựa mình. Tính tò mò lước
thắng sự sợ hãi, cô bé vào theo và thấy mình ấm hẳn lên trong căn phòng có ngọn
lửa than đốt để sưởi, căn phòng sáng rực lên dưới những bức tranh màu treo la
liệt trên tường, và tràn ngập một mùi hương là lạ nhưng dễ chịu.
...
Con chim vẫy cánh. Với
bàn tay lành lặn, Rhayader trải rộng một trong hai chiếc cánh trắng lớn ra. Bầu
cánh có đốm đen rất đẹp.
..
Rhayader trầm trồ ngắm
nghía và hỏi :
...
“Này em! Em thấy
nó ở đâu đấy?”
...
“Ở trong đồng
lầy, ông ạ, nơi những tay thợ săn đi qua. Loại chim gì ông nhỉ?”
....
“Loại ngỗng
trốn tuyết gốc Canada. Mà tại sao nên nông nỗi này?”
....
Tên con chim hình như
chẳng có ý nghĩa gì đối với cô gái bé nhỏ. Đôi mắt thăm thẳm màu tím sẫm sáng
lên làm át cả vẻ lem luốc của khuôn mặt gầy đét, chăm chú nhìn con vật bị
thương đầy vẻ lo âu.
...
Cô bé hỏi:
..
“Liệu ông có
chữa cho nó lành được không?”
...
“Được, được
chứ”, Rhayader đáp. “Chúng ta thử xem sao. Lại đây, em giúp tôi một tay nhé”
....
Trên chiếc kệ có sẵn
kéo, băng và nẹp gỗ để tháp xương bị gãy, và mặc dù có tật, chàng khéo tay lạ
thường, ngay cả cánh tay khoèo hình móng chim cũng vậy, cầm vật dụng rất tài.
....
Chàng nói : “Tội
nghiệp, cô ả bị đạn bắn trúng đây. Cẳng bị gãy rồi, đầu cánh cũng vậy, nhưng
không đến nỗi nặng lắm. Xem nào, mình phải xén lông cánh mới băng bó được,
nhưng sang xuân rồi lông cánh sẽ mọc lại và cô ả sẽ lại bay được. Mình sẽ cột
chặt cánh vào thân, và như vậy cô ta sẽ không cựa quậy đôi cánh được cho tới
khi lành hẳn. Kế đó mình sẽ bó chỗ chân cô ả bị đau”.
..
Cô bé quên cả sợ, say
sưa theo dõi việc làm của chàng, một phần cũng vì chàng vừa bó chiếc chân chim
gãy vừa kể cho cô nghe một câu chuyện kỳ diệu.....
....
...
Con chim còn non, chưa
tròn một tuổi. Nó sinh ra ở đất bắc xa xôi, cách mấy trùng biển cả trên một
lãnh địa thuộc vương quốc Anh Cát Lợi. Nó bay về phương nam để trốn tuyết, trốn
băng giá, trốn làn khí lạnh rợn người, một cơn bão lớn đã vồ lấy nó, đã cuốn nó
vào những đợt cuồng phong. Một trận bão thật kinh khủng, mạnh gấp bội đôi cánh
lớn của nó, và mạnh hơn bất cứ sức mạnh nào. Ròng rã nhiều đêm và nhiều ngày,
trận bão đã xua đuổi nó, không ngừng nghỉ và con chim mắc kẹt không thể làm
được gì hơn là nương bay theo luồng gió cuốn. Sau cùng cơn bão tan dần và bản
năng tinh tường lại dẫn nó bay theo về hướng nam, nó đã tới một miền đất xa lạ
và quanh nó toàn giống chim lạ mà trước đó nó chưa hề thấy. Sau cùng, mệt lả vì
đuối sức, nó sà xuống nghỉ trên cánh đồng xanh thân thuộc để rồi được viên đạn
của người đi săn tiếp đón.
“Một lối tiếp rước tàn
nhẫn đối với một vị công chúa từ nơi xa tới viếng thăm”, Rhayader kết luận.
“Mình sẽ gọi cô ta bằng biệu hiệu “La Prrincesse Perdue” – Nàng công chúa lạc
loài. Rồi chỉ ít ngày sau nàng sẽ khá hẳn đó. Coi nào!” Chàng thọc tay vào túi
lấy ra một nắm hạt. Con ngỗng trốn tuyết mở tròn đôi mắt ra và bắt đầu rỉa mồi.
........
Cô bé cất tiếng cười
thích thú, rồi bỗng nín thở khi chợt nhận ra nơi chốn cô ta đang ở, và không nói
nửa lời cô bé quay mình chạy vọt ra khỏi cửa.
“Đợi chút, đợi một chút!” Rhayader la lên và chạy theo ra cửa. Chàng đứng lại nơi ngưỡng cửa và khuôn cửa đóng khung lấy hình thù dềnh dàng của chàng. Cô bé đã thoát ra tới bờ đê ven biển rồi, nhưng nghe tiếng gọi thì dừng lại.
“Đợi chút, đợi một chút!” Rhayader la lên và chạy theo ra cửa. Chàng đứng lại nơi ngưỡng cửa và khuôn cửa đóng khung lấy hình thù dềnh dàng của chàng. Cô bé đã thoát ra tới bờ đê ven biển rồi, nhưng nghe tiếng gọi thì dừng lại.
..
“Này em, em tên là gì
nhỉ?”
.....
“Frith”.
..
“Hả?” Rhayader hỏi.
“Tôi chắc là Fritha mới đúng. Thế em ở đâu?”
..
“Với dân chài dưới bến
Wickaeldroth”. Cô bé đọc tên ấy bằng giọng Saxon thật xưa.
..
“Mai hay mốt em có lại
thăm sức khoẻ nàng Công chúa hay không?”
..
Cô bé không trả lời
ngay khiến Rhayader lại liên tưởng đến những con chim hoang dưới đầm lầy khi
hoảng sợ thường bất động trong khoảng một phần mười giây trước khi vỗ cánh bay
xa.
..
Nhưng giọng nói trong
trẻo mà yếu ớt của cô bé lại vọng tới chàng : “Có chứ!”
..
Và rồi cô bé bỏ chạy,
mái tóc hung vàng tha thướt tung bay trước gió.
..
Con ngỗng trốn tuyết
bình phục mau lẹ, khoảng giữa mùa đông nó đã tập tễnh đi trong khu đất có hàng
rào, hay nhập bọn với những con ngỗng hoang chân hồng, chứ không đi với bọn
lông nâu, và nó cũng biết chạy lại tìm ăn mỗi khi Rhayader lên tiếng gọi. Và cô
bé, Fritha, hay Frith, là người khách thường xuyên lui tới. Cô bé không còn sợ
hãi Rhayader nữa. Trí tưởng tượng của cô bị thu hút bởi sự hiện diện của nàng
công chúa áo trắng kỳ ngộ đến từ miền đất lạ cách mấy trùng dương, miền đất
toàn màu hồng trên tấm bản đồ mà Rhayader đã chỉ cho em xem, trên đó hai người
dựng lại cuộc hành trình vất vả mà cánh chim lạc lõng trong cơn gió bão đã vượt
quakể từ khi rời quê hương trên đất Canada để đến miền Đồng lầy rộng lớn trên
duyên hải Essex.
..
Rồi một buổi sáng
tháng Sáu một bầy ngỗng chân hồng cuối cùng, no nê, mập mạp sau suốt mùa đông ở
hải đăng, nghe theo tiếng gọi thôi thúc của miền đất xanh tươi, uể oải bay lên
theo vòng trôn ốc mỗi lúc một rộng. Lẫn trong đàn chim đó, rực sáng trong ánh
nắng xuân tươi, là thân lông trắng tuyền với hai đầu cánh lớn đốm đen của con
chim trốn tuyết. Sự việc xảy ra vào lúc Frith có mặt ở hải đăng. Tiếng kêu của
cô bé khiến Rhayader từ trong phòng vẽ nhảy bổ ra.
..
“Coi kìa! Coi kìa!
Nàng công chúa! Bộ nàng cũng bỏ đi hay sao?”
Rhayader ngước nhìn lên trời dõi theo những chấm đen di chuyển. “Chà!” chàng nói, bất giác dập theo lời cô bé. “Nàng công chúa hồi hương! Lắng tai mà nghe, nàng đang từ giã chúng ta đó!”.
Rhayader ngước nhìn lên trời dõi theo những chấm đen di chuyển. “Chà!” chàng nói, bất giác dập theo lời cô bé. “Nàng công chúa hồi hương! Lắng tai mà nghe, nàng đang từ giã chúng ta đó!”.
..
Từ trên vòm trời trong
vắt vọng xuống tiếng kêu ai oán của những con ngỗng chân hồng, và nổi bật lên
trên, cao hơn, trong hơn, là tiếng của con chim trốn tuyết. Những chấm đen di
chuyển theo hướng Bắc, kết thành hình chữ V nhỏ dần, rồi mất hút.
..
Từ bữa con chim trốn
tuyết ra đi, Frith không lui tới vọng hải đăng nữa.
Rhayader lại một lần nữa thấm thía ý nghĩa của hai chữ “cô đơn”.
Rhayader lại một lần nữa thấm thía ý nghĩa của hai chữ “cô đơn”.
..
Mùa hè năm ấy, moi
trong ký ức, chàng vẽ lại hình dáng thanh thanh của cô bé, mặt lem luốc, mái
tóc hung vàng bồng bềnh trong gió lộng tháng chín, trong tay ghì chặt con chim
trắng bị thương.
..
Vào giữa tháng mười,
có một chuyện lạ xảy ra. Lúc đó Rhayader đang đứng trong khu đất có hàng rào
cho chim ăn. Gió đông bắc gây gấy lạnh và mặt đất rầm rì dưới làn nước thuỷ
triều dâng. Vượt lên trên tiếng sóng biển và tiếng gió rì rào, chàng chợt nghe,
có tiếng kêu lanh lảnh, cao vút. Chàng ngước mắt nhìn lên vòm trời chiều vừa
đúng lúc để trước hết thấy một chấm đen nhỏ xíu, rồi thấy ảo ảnh một giấc mơ
đen trắng chập chờn xuất hiện, nó lượn quanh hải đăng một vòng, rồi, sau chót,
một cánh chim thực hạ cánh xuống đất ngay chỗ chuồng chim rồi đường bệ tiến lên
đòi ăn như thể nó chưa hề bỏ đi xa bao giờ. Đó chính là con chim trốn tuyết,
không thể nào lầm lẫn được. Nó đã đi đâu? Chắc chắn là không thể bay về tổ nó
bên Canada. Không, chắc chắn là nó đi nghỉ hè ở Greenland hay Spitzbergen với
những con ngỗng chân hồng. Nó đã nhớ và đã trở lại.
..
Kỳ tới xuống thôn
Chelmbury mua lương thực, chàng nhờ cô trưởng trạm bưu điện nhắn tin giùm và
điều đó đã khiến cô ta ngạc nhiên không ít. Chàng nói : “Phiền cô làm ơn nói
lại với Frith, cô bé ở dưới xóm chài Wickaeldroth, rằng Nàng công chúa đi lạc
đã trở lại”.
..
Ba hôm sau, Frith, to
lớn hơn, nhưng áo quần vẫn xốc xếch, tóc rối, bẽn lẽn tìm đến hải đăng để thăm
nàng công chúa.
..
Thời gian trôi qua.
Trên vùng đồng lầy, bước đi của thời gian được đánh dấu bởi sự lên xuống của
nước thủy triều, nhịp đi chầm chậm của bốn mùa, sự di chuyển của chim muông,
và, riêng đối với Rhayader, sự đến và đi của con chim trốn tuyết.
..
Thế giới bên ngoài xao
động, bùng sôi và gầm gừ dưới áp lực của một mãnh lực nào đấy, không bao lâu
sau đã bùng nổ và đưa thế giới đến bên bờ sự hủy diệt. Nhưng mãi tới lúc đó,
Rhayader vẫn chưa chịu ảnh hưởng của thời cuộc, và cả Frith cũng thế. Ngay cả
khi cô bé đã khôn lớn, hai người vẫn hoà hợp tự nhiên một cách lạ thường. Khi
con chim trốn tuyết có mặt tại hải đăng thì chính cô bé cũng lại lui tới để
thăm viếng và học hỏi Rhayader được nhiều điều. Hai người ra biển chơi trên
chiếc thuyền buồm chạy nhanh mà chàng điều khiển rất tài tình. Họ lưới chim
hoang để tăng thêm cố chim đang nuôi, và dựng thêm hàng rào, mở thêm sân che
chở cho chúng. Nhờ chàng, cô bé học hỏi được nhiều điều về đủ loại dã điểu, từ
loài hải âu tới giống chim ưng bay lượn trên vùng đồng lầy. Thỉnh thoảng cô bé
nấu ăn cho chàng và đôi khi cô còn tập pha sơn vẽ nữa.
..
Nhưng hễ con chim trốn
tuyết bay về vùng cư ngụ mùa hè thì mọi chuyện lại xảy ra như thể có một hàng
rào ngăn cách giữa hai người và cô gái không lui tới hải đăng nữa. Có một năm
con chim không trở lại và Rhayader buồn khôn tả xiết. Chàng như có cảm tưởng
mọi sự đã hết trong đời chàng. Chàng vẽ như điên suốt mùa đông và mùa hè sau
đó, và không hề gặp mặt cô bé một lần nào. Nhưng vào thu, tiếng kêu thân thuộc
lại vang trên thinh không, và cánh chim trắng khổng lồ, bây giờ đã lớn hết cỡ,
từ trời cao hạ xuống cũng bí mật như lúc nó ra đi. Mừng rỡ, Rhayader dong
thuyền xuống Chelmbury để nhờ cô trưởng trạm bưu điện nhắn tin giùm.
..
Lạ thay, lần này sau
khi nhắn tin phải đợi tới hơn một tháng trời Frith mới xuất hiện và Rhayader
kinh ngạc đến sững người khi nhận thấy cô ta không còn là một cô bé nữa.
..
Và sau cái năm con
chim không tới ấy, thời hạn nó vắng mặt càng lúc càng thu ngắn lại. Nó đã trở
nên dạn dĩ đến nỗi lúc nào nó cũng quấn quít theo Rhayader và nó dám vào cả
trong phòng vẽ những lúc chàng đang làm việc.
Mùa xuân năm 1940 bầy di điểu rời khỏi vùng đồng lầy sớm hơn thường lệ. Thế giới đã lâm chiến. Tiếng gầm rú của máy bay phóng pháo và tiếng nổ ì ầm của bom đạn làm chúng khiếp đảm. Hôm mồng một tháng năm, Frith và Rhayader đứng vai kề vai bên bờ đê ven biển theo dõi những đốm cánh cuối cùng của đán ngỗng chân hồng cánh không bị xén và những con ngỗng hoang lông nâu cất cánh bay lên từ nơi chúng trú ẩn. Cô gái thì cao, dáng thanh tú, thảnh thơi như gió thoảng, vẻ đẹp mê hồn. Chàng thì đen đúa, thô kệch, cái đầu râu tóc bù xù ngước nhìn lên trời, đôi mắt đen lóng lánh theo dõi đàn chim bay thành hàng.
Mùa xuân năm 1940 bầy di điểu rời khỏi vùng đồng lầy sớm hơn thường lệ. Thế giới đã lâm chiến. Tiếng gầm rú của máy bay phóng pháo và tiếng nổ ì ầm của bom đạn làm chúng khiếp đảm. Hôm mồng một tháng năm, Frith và Rhayader đứng vai kề vai bên bờ đê ven biển theo dõi những đốm cánh cuối cùng của đán ngỗng chân hồng cánh không bị xén và những con ngỗng hoang lông nâu cất cánh bay lên từ nơi chúng trú ẩn. Cô gái thì cao, dáng thanh tú, thảnh thơi như gió thoảng, vẻ đẹp mê hồn. Chàng thì đen đúa, thô kệch, cái đầu râu tóc bù xù ngước nhìn lên trời, đôi mắt đen lóng lánh theo dõi đàn chim bay thành hàng.
...
“Coi kìa, Philip”,
Frith gọi.
..
Rhayader nhìn theo
hướng mắt của cô gái. Con chim trốn tuyết đã cất cánh, đôi cánh lớn xoè ra,
nhưng nó bay thấp và có lúc bay sát chỗ hai người đứng, sát đến nỗi hai đầu
cánh đen gần như quệt vào người họ, và họ cảm thấy luồng gió mạnh của lớp cánh
chim tạt vào người. Một lần, rồi hai lần, con chim lượn quanh hải đăng, rồi hạ
cánh trong sân, nơi có những con ngỗng bị xén lông cánh còn ở lại, và bắt đầu
nhặt mồi ăn thong thả.
..
“Nó không đi nữa”,
Frith nói, đầy vẻ kinh ngạc trong giọng cô gái. Cánh chim trong lúc bay sà
xuống sát bên cô dường như đã đem đến cho cô một niềm phấn khởi kỳ diệu “Nàng
Công Chúa sẽ ở lại”.
........
“Phải”, Rhayader đáp,
và giọng nói của chàng run lên vì cảm động. “Nàng sẽ ở lại, Nàng sẽ không đi
nữa. Nàng Công Chúa đi lạc sẽ không còn đi lạc nữa. Từ nay nơi đây là quê hương
của nàng- quê hương do nàng tự ý chọn lựa”.
Sức quyến rũ mà cánh chim vấn chung quanh cô gái bị rạn vỡ và Frith bỗng ý thức được sự kiện là cô bị kinh hoàng, và nguyên nhân gây nên sự sợ hãi ấy chính là đôi mắt Rhayader - sự van lơn cầu khẩn, nỗi cô đơn và tất cả những gì thầm kín, sâu xa, sôi động đều tiềm ẩn bên trong và bên trên tia mắt ấy, lúc chàng ngước nhìn cô.
Sức quyến rũ mà cánh chim vấn chung quanh cô gái bị rạn vỡ và Frith bỗng ý thức được sự kiện là cô bị kinh hoàng, và nguyên nhân gây nên sự sợ hãi ấy chính là đôi mắt Rhayader - sự van lơn cầu khẩn, nỗi cô đơn và tất cả những gì thầm kín, sâu xa, sôi động đều tiềm ẩn bên trong và bên trên tia mắt ấy, lúc chàng ngước nhìn cô.
..
Những lời chàng vừa
nói cứ lập lại trong đầu cô gái tựa như chính chàng vừa nhắc lại : “Từ nay nơi
đây là quê hương của cô – cô tự ý chọn lựa”. Bản năng hền dịu của Frith đã làm
Rhayader xao xuyến và làm cho cô hiểu được những ý nghĩ thầm kín mà vì mặc cảm
tật nguyền, xấu xí, chàng đã không thể nói được nên lời. Và vì lời nói của
chàng có sức phủ dụ, cô lại càng thêm hoảng sợ trước sự yên lặng cùng mãnh lực
của những gì không nói ra giữa hai người. Bản năng đàn bà trong cô như thôi
thúc cô bỏ chạy trước một sự việc nào đó mà cô chưa đủ khả năng hiểu thấu.
..
Frith lắp bắp : “Em –
em phải về. Thôi chào ông. Em cũng vui là – là nàng công chúa sẽ ở lại. Từ đây
ông không cô đơn lắm nữa”.
..
Cô gái quay lưng,
thoăn thoắt bước đi và chỉ thoáng nghe thấy lời chào buồn thảm “Chào em,
Frith”, mơ hồ như tiếng ma, lạc trong tiếng gió thổi rì rào trên đồng cỏ hoang.
Đi được một thôi dài rồi cô mới dám liếc mắt nhìn trở lại phía sau. Chàng vẫn
đứng trên bờ đê, một chấm đen nhỏ in trên nền trời bao la.
..
Cơn sợ hãi bấy giờ mới
tan. Nó nhường chỗ cho một cái gì khác, một cảm giác mất mát là lạ, cảm giác đó
mạnh đến nỗi khiến cô đứng sững lại hồi lâu. Rồi, bước đi chậm chạp hơn, cô
tiếp tục rời xa dần ngọn hải đăng mọc chĩa lên nền trời như một ngón tay, tiếp
tục rời xa dần người đàn ông đứng ở phía dưới.
...
Sau đó có đến ba tuần
Frith mới trở lại hải đăng. Tháng Năm đã gần hết, và ngày hôm đó, ngày cũng dần
tàn, vào lúc hoàng hôn đang nhường dần chỗ cho màu trắng bạc của vầng trăng đã
treo lơ lửng trên vòm trời phía đông.
Cô gái tự nhủ, trong lúc tiến bước, rằng cô cần phải tới xem con chim trốn tuyết có còn ở lại đúng như lời Rhayader đã nói hay không. Rất có thể là rốt cuộc nó đã bay đi. Những bước đi vững chắc của cô trên mặt đê thật là hăng hái và đôi lúc bất giác cô chợt nhận ra mình đang rảo bước đi mau.
Cô gái tự nhủ, trong lúc tiến bước, rằng cô cần phải tới xem con chim trốn tuyết có còn ở lại đúng như lời Rhayader đã nói hay không. Rất có thể là rốt cuộc nó đã bay đi. Những bước đi vững chắc của cô trên mặt đê thật là hăng hái và đôi lúc bất giác cô chợt nhận ra mình đang rảo bước đi mau.
..
Frith nhìn thấy ánh
lửa vàng của chiếc đèn lồng ở dưới bến riêng của Rhayader và cô xuống gặp chàng
dưới đó. Chiếc thuyền buồm của chàng nhè nhẹ đung đưa trên ngọn nước triều dâng
và chàng đang chất lương thực lên thuyền - nước ngọt, thức ăn khô, mấy chai
rượu mạnh, đồ dùng trên thuyền và một cánh buồm phòng hờ. Khi chàng quay lại vì
nghe tiếng chân cô đến gần, cô thấy vẻ mặt chàng tái nhợt, nhưng đôi mắt đen
lúc bình thường vốn rất ư dịu dàng, đang sáng ngời lên vì cảm kích, và chàng
thở hào hển vì mệt nhọc.
Frith bỗng nhiên cảm thấy lo sợ. Con chim trốn tuyết bị lãng quên rồi.
Frith bỗng nhiên cảm thấy lo sợ. Con chim trốn tuyết bị lãng quên rồi.
..
"Philip! Bộ anh
dọn đi nơi khác à?”
..
Rhayader ngừng tay để
chào đón cô gái, và trên gương mặt chàng thoáng hiện một vẻ gì khác thường -
một sắc diện hớn hở mà trước đó cô chưa từng thấy bao giờ.
..
“Frith! Tôi mừng vì em
đến đúng lúc. Vâng, tôi phải đi. Một chuyến đi ngắn ngủi. Rồi tôi sẽ trở về”.
Giọng nói của chàng thường nhật dịu dàng, bữa nay trở nên khàn khàn vì chàng đã
cố gắng rõ rệt để chế ngự cơn xúc động trong nội tâm.
..
Frith hỏi : “Anh phải
đi dâu chứ?”
..
Rhayader vồn vã kể .
Chàng phải đi Dunkerque.
...
Cách chừng một trăm
dặm bên kia bờ biển phía Bắc, một đạo binh Anh mắc bẫy ở đó, trên bãi cát, đang
chờ bị tiêu diệt bởi bàn tay quân Đức đang tiến tới. Hải cảng ngùn ngụt bốc
cháy, tình cảnh thật tuyệt vọng. Chàng nghe được tin ấy khi chàng xuống dưới
làng mua lương thực. Nhiều người đã đáp lại lời kêu gọi của chính phủ rời bến
Chelmbury với đủ thứ tàu : tàu kéo hàng, tàu đánh cá hay xuồng máy, miễn là máy
còn chạy nổi đều được kéo ra khỏi cảng, vượt eo biển để lôi binh sĩ ra khỏi bãi
biển, chở họ đến những tàu vận tải hay những chiến hạm lớn không vào được chỗ
đó. Dân chúng cố gắng cứu sống càng nhiều càng hay số binh sĩ Anh thoát khỏi
làn mưa đạn của quân Đức. ..
..
Frith lắng nghe và cảm
thấy lòng mình buồn như muốn chết. Chàng cho biết là chàng sẽ vượt qua eo biển
trên chiếc thuyền buồm nhỏ của chàng. Nó có thể chở được sáu người mỗi chuyến,
nếu cần thì bảy người. Chàng có thể chở nhiều chuyến từ bãi biển ra tàu vận tải
đậu ngoài khơi.
..
Cô gái còn trẻ, chất
phác, vụng dại. Em chưa hiểu gì về chiến tranh, hoặc về những gì đang xảy ra
trên đất Pháp, hoặc về ý nghĩa sự mắc bẫy của đoàn quân Anh, nhưng do linh tính
cô gái cũng biết ở nơi xa xôi đó thật nguy hiểm.
..
“Philip! Anh đi thật
sao? Anh sẽ không về được đâu. Mà sao anh lại phải đi?”
..
Cơn hăng say đang bồng
bột trong tâm hồn chàng tưởng chừng tan biến trước đợt đầu tiên của những câu
nói và chàng cố giải thích bằng những lời lẽ mà cô gái có thể hiểu được.
..
Chàng nói : “Binh sĩ
bị lùa ra bãi biển giống như những con chim bị săn đuổi, Frith ạ, như những con
chim bị săn và bị thương mà chúng mình vẫn thường bắt gặp và đưa về nơi trú ẩn.
Bay lượn trên họ là một bầy chim bằng thép, những con diều hâu, chim ưng, kên
kên, và họ chẳng biết nấp vào đâu để tránh những con chim sắt săn mồi ấy. Họ bị
thua, bị bão táp dồn đuổi, bị đe doạ như nàng công chúa đi lạc mà em đã bắt gặp
trong đầm lầy và mang đến cho tôi nhiều năm trước, và chúng ta đã cùng lo chạy
chữa. Cũng như bầy hoang điểu của chúng ta, những người lính đó cần được giúp
đỡ, em ạ. Và vì thế mà tôi phải đi, đó là điều mà tôi có thể làm được. Đúng,
tôi làm được mà. Ít ra là một lần - phải, ít ra là một lần tôi có dịp chứng tỏ
mình là đàn ông và có thể đảm nhận trách nhiệm của mình”.
..
Frith nhìn Rhayader
trừng trừng. Chàng như đã hoá thân. Lần đầu tiên cô gái thấy chàng không còn
xấu xí, tật nguyền nữa, trái lại chàng rất đẹp. Trong tâm hồn cô cũng sôi sục
bao nhiêu điều muốn được nói nên lời, nhưng cô không biết nói thế nào.
..
“Philip! Em sẽ đi cùng
với anh!”
..
Rhayader lắc đầu : “Em
đi thì con thuyền sẽ mất bớt một chỗ, do đó một người lính sẽ bị bỏ lại, rồi
một người nữa, và một người nữa. Anh phải đi một mình, em ạ”.
..
Chàng mặc áo mưa, đi
giày ống cao su và dong thuyền chạy. Chàng giơ tay vẫy gọi với lại : “Tạm biệt
nhé! Nhờ em săn sóc giùm lũ chim đến lúc anh về nghe Frith!”
..
Frith đưa tay lên,
nhưng chỉ tới lưng chừng thôi, vẫy lại : “Cầu xin Chúa che chở cho anh”, rồi cô
vội giải thích ngay bằng thổ ngữ Saxon. “Em sẽ săn sóc đàn chim. Cầu trời che
chở cho anh, Philip.”
..
Lúc đó đã vào đêm,
trời sáng dưới ánh sao, vừng trăng lưỡi liềm cùng ánh lửa cháy hồng từ phương
bắc. Frith đứng trên bờ đê, ngó theo cánh buồm trắng trên con lạch ngập nước
triều dâng. Bỗng nhiên từ vùng bóng tối phía sau cô gái, có tiếng cánh bay rào
rào và có một vật gì đó bay ngang qua sát bên cô. Trong ánh sao đêm cô thoáng
thấy đôi cánh trắng loé sáng, đầu cánh có đốm đen, và cái đầu chúi về phía
trước của con chim trốn tuyết.
..
Nó bay lên và lượn một
vòng quanh ngọn tháp để rồi bay xuôi theo hướng con lạch quanh co trên hồ và
cánh buồm của Rhayader đang lướt nhanh dưới làn gió lộng. Con chim bay chầm
chậm phía trên con thuyền theo hình vòng tròn rộng.
...
Còn nhìn thấy cánh
buồm trắng và cánh chim trắng trong một hồi lâu.
“Hãy trông chừng chàng, hãy che chở cho chàng”, Frith thì thào. Lúc cả hai cùng khuất bóng, cô gái quay lưng và uể oải cất bước, đầu cúi thấp, đi về hải đăng trống vắng.
“Hãy trông chừng chàng, hãy che chở cho chàng”, Frith thì thào. Lúc cả hai cùng khuất bóng, cô gái quay lưng và uể oải cất bước, đầu cúi thấp, đi về hải đăng trống vắng.
..
Đến đây câu chuyện
được chắp nhặt đây đó, và một trong những mẩu chuyện vụn vặt đó được thuật lại
do lời nhũng người lính đi phép trong quán Crown and Arrow, một quán rượu gần
thánh đường East Chapel.
..
“Một con ngỗng, một
con ngỗng tuyệt đẹp đã cứu tôi”, anh binh nhì Potton thuộc Ngự Đoàn bộ binh
thành Luân Đôn nói.
..
“Xì”, người lính pháo
thủ có đầu gối cong, tỏ vẻ không tin.
..
“Đúng là một con
ngỗng, tôi chắc mà. Này Jock, cậu cũng trông thấy nó như tôi, đúng không? Nó
bay xuống từ đám khói mịt mù, nồng khét của chiến trường Dunkirk (Dunkerque),
lơ lửng trên đầu bọn này. Lông nó trắng, đầu cánh có đốm đen, và nó lượn xung
quanh bọn này như một phi cơ phóng pháo mắc dịch nọ. Jock thấy thế mới nói :
“Tiêu rồi, Thần chết đến tìm bọn mình đó.”
...
“Bậy nào”, tôi cãi,
“đây là con ngỗng lông hồng, từ quê hương mình bay sang mang theo thông điệp
của ông Churchill, ông ta muốn biết tụi mình đang thưởng thức cái thú tắm mát
này ra làm sao. Đây là một điềm báo, đúng mà, dù là điềm báo đầy máu. Rồi thế
nào bọn mình cũng thoát mà, bạn ơi.”
..
“Tụi mình đang bị
nướng chín trên bãi biển nằm giữa Dunkirk và Lapanny, giống như một xâu chim
câu óng chuốt bên bờ hồ Victoria, đang chờ lão đồ tể Jerry đến vặt lông làm
thịt. Chắc chắn hắn sẽ ăn sống nuốt tươi bọn mình. Hắn theo bén gót mình, thúc
cạnh sườn mình và ngay trên đầu mình. Hắn sẽ cho mình một phát đạn ghém và tặng
mình tước vị , và từ trên vòm trời trong sáng lũ quỷ Jittersmiths sẽ rắc tiêu
lên đầu mình”.
..
Và ngoài khơi có chiếc
Kentish Maid, chiếc tàu chở du khách mà tôi đã đáp nhiều chuyến đi Margate(12)
trong dịp hè, giá vé hai đồng sáu hào, đang chờ đón tụi tôi, nó đậu chỉ cách
chỗ bãi biển đang lâm chiến chừng nửa dặm đường.
..
Trong lúc tụi tôi nằm
trên bãi biển thì chỉ còn biết chửi thề thôi vì không có cách nào ra được chỗ
tàu đậu, một chiếc Stuka(13) nhào xuống con tàu, một chuỗi bom rơi dọc bên hông
tàu, khiếnnước tung lên trông như những vòi nước vọt trong vườn hoa các dinh
thự, có điều là ở vườn hoa thì các vòi nước phun lên đều đều.
..
Rồi một chiếc khu trục
hạm ló ra bảo chiếc Stuka : “Đừng có làm thế”, bằng những tiếng nổ lạch tạch,
đùng đùng, nhưng một chiếc Jerry khác lại nhào xuống chiếc khu trục hạm và ném
bom trúng. Khiếp! Nó nhảy tưng lên! Nó bốc cháy trước khi chìm, rồi khói, mùi
khét lẹt tạt vào tận bãi biển, khói vàng, khói đen, và trong đám khói ấy xuất
hiện con ngỗng sáng rực, nó lượn quanh chúng tôi đang nằm mắc kẹt trên bờ biển.
..
Thế rồi, từ một khúc
biển uốn quanh xuất hiện một chiếc thuyền nhỏ vấy máu, chạy thật thanh thản tựa
như một chiếc du thuyền rực rỡ nhàn nhã rong chơi vào một buổi chiều chủ nhật
trên hồ Henlye.
..
“Ai đó?” một người
thường dân hỏi.
..
“Tôi đây! Tôi đến để
cứu các anh đây”. Con thuyền đã vô sự vượt qua làn mưa đạn súng liên thanh từ
một chiếc máy bay trong phi đội phóng pháo Đức dội xuống - trước đó nửa giờ một
chiếc thuyền gắn máy ở Ramsgate đã cố vào chuyển chúng tôi đi và đã bị bắn chìm
- mặt nước ngầu lên vì vết đạn cày, nhưng gã lái thuyền như không lưu ý tới,
chắc chắn là gã không thèm lưu ý tới. Làm gì có xăng nhớt mà sợ bị máy bay phát
nổ, và cứ thế nó len lỏi qua những mũi đạn chúc xuống rào rào.
..
Từ trong làn khói đen
của chiếc tàu bốc cháy rẽ vào chỗ cạn, có một anh chàng nhỏ thó, đen đúa, có
râu, một bên cánh tay có tật giống như chiếc móng chim, và một cục bướu trên
lưng.
..
Gã gù cắn chặt sợi dây
giữa hai hàm răng, sợi dây trắng bóng giữa bộ râu đen rậm, ngồi đằng đuôi lái gã
vẫy chúng tôi lại. Và ngay trên đầu là cánh chim lực lưỡng lượn qua lượn lại.
..
Thấy thế Jock nói :
“Coi kìa, điên thật rồi. Đúng là loài quỷ dữ đến rước mình đi. Chẳng thà trúng
đạn chết mất ngáp còn hơn là trông thấy nó”.
..
“Bậy nào”, tôi cãi,
“tôi thấy hắn ta giống ông Thiện chứ không phải loài quỷ dữ”.
..
Mà thật thế trông hắn
ta giống những bức hình in trong những cuốn sách giáo lý với khuôn mặt trắng,
và ngay cả con thuyền quái quỉ của hắn nữa.
“Tôi có đủ chỗ cho bảy người mỗi chuyến”, hắn hô lên khi chiếc thuyền ghé lại gần.
Vị sĩ quan chỉ huy chúng tôi đáp : “Anh can đảm lắm! … Bảy cậu gần thuyền nhất, lên đi!”
“Tôi có đủ chỗ cho bảy người mỗi chuyến”, hắn hô lên khi chiếc thuyền ghé lại gần.
Vị sĩ quan chỉ huy chúng tôi đáp : “Anh can đảm lắm! … Bảy cậu gần thuyền nhất, lên đi!”
..
Chúng tôi lội ùa ra
tới bên thuyền hắn. Tôi mệt đến nỗi không leo lên được cạnh thuyền, nhưng hắn
nắm lấy gáy áo tôi mà lôi lên, miệng nói : “Ráng lên nào, anh bạn”, rồi người
kế tiếp leo lên.
....
Thế là tôi lên được.
Chà, hắn mới khoẻ làm sao chứ. Rồi hắn kéo buồm lên, một cánh buồm lỗ chỗ đạn
súng máy giống như chiếc sàng sảy lúa, và hắn hô ta : “Ngồi cả xuống lòng
thuyền, mấy chú, phòng trường hợp dọc đường có gặp thêm đồng đội của mấy chú
chăng”, và rồi chúng tôi rời khỏi bờ, hắn ngồi đằng sau lái, răng cắn chặt sợi
dây thừng, chiếc tay khoèo hình móng chim nắm giữ một sợi khác, tay phải bẻ lái
và rồi con thuyền lướt sóng ra khơi, chạy len lỏi giữa những viên đạn làm tung
toé nước, từ một ổ súng đặt ở một nơi nào đó trong bờ biển bắn ra. Và cánh
ngỗng lực lưỡng lượn đi lượn lại, kêu quàng quạc át cả tiếng gió và tiếng huyên
náo mà quân Đức đang tạo nên, giống như ngày đại hội khiêu vũ hoá trang trên
đường phố thành Winchester.
Tôi đã bảo anh rằng con ngỗng kia là điềm lành mà”, tôi nói với thằng Jock.
“Nhìn hắn mà xem, hắn là ông Thiện tới cứu mình mà”.
Tôi đã bảo anh rằng con ngỗng kia là điềm lành mà”, tôi nói với thằng Jock.
“Nhìn hắn mà xem, hắn là ông Thiện tới cứu mình mà”.
....
Hắn ngồi ở chỗ tay
lái, ngước nhìn lên cánh ngỗng, răng cắn chặt sợi dây thừng, và mỉm cười với
con ngỗng như đã từng quen biết nó từ lâu.
....
Hắn đem chúng tôi ra
tới tàu Kentish Maid rồi lại quay thuyền đi chở chuyến khác. Suốt buổi chiều và
luôn cả đêm hôm đó nữa hắn chở được rất nhiều chuyến, vì cả vùng trời Dukirk
cháy sáng rực nên có thể nhìn thấy rõ như ban ngày. Tôi không rõ hắn đi được
bao nhiêu chuyến, nhưng hắn và chiếc du thuyền có gắn máy hảo hạng của hội bơi
thuyền Thames Yacht Club và một chiếc tàu cấp cứu khác từ bến Poole tới đã hè
vào chở hết bọn tôi, không sót một tên nào, ra khỏi cái dải đất đặc biệt của
vùng hoả ngục ấy.
....
Tàu nhổ neo khi người
cuối cùng trong bọn tôi đã lên, có tới trên bảy trăm mạng nhét trên con tàu
được đóng để chở chừng hai trăm người. Hắn hãy còn ở lại đó khi chúng tôi khởi
hành, hắn vẫy tay từ giã chúng tôi và lại quay mũi theo hướng Dunkerque, con
ngỗng vẫn bám sát theo hắn. Trông thật ngộ nghĩnh, cánh chim lực lưỡng bay
quanh chiếc du thuyền của hắn, cánh chim loé ngời lửa đạn, tựa như một vị thiên
thần trong trắng bay lượn giữa đám khói lửa mịt mờ...
....
Một chiếc Stuka dọc
đường lại tấn công chúng tôi thêm một lần nữa, nhưng anh chàng phi công ý hẳn
đã thiếu ngủ từ nhiều đêm trước nên oanh kích hụt đích. Tảng sáng chúng tôi về
đến nước nhà bình an vô sự.
..
Sau đó tôi không biết
số phận hắn ra sao, hoặc hắn là ai – cái anh chàng gù lưng với chiếc thuyền
buồm bé nhỏ của hắn. Anh chàng đó thật là can đảm và tốt bụng lạ thường”.
..
“Chà”, người lính pháo
thủ nói, “một cánh chim lực lưỡng và hung hung đỏ, có ai biết không nào?”
..
Một vị sĩ quan hải
quân trừ bị, trong bốn ngày cuối cùng của cuộc triệt thoái, đã bị thiệt hại mất
hai chiếc tàu kéo lưới Brixham và một chiếc tàu rà mìn Yarmouth được đặt dưới
quyền chỉ huy của ông, lên tiếng hỏi : “Bác có nghe nói gì tới huyền thoại khó
mà tin được về một con ngỗng hoang không nhỉ? Nó hết bay lên rồi lại bay xuống
dọc theo bãi biển. Mà bác cũng thừa biết loại chuyện đó thường xảy ra như thế
nào rồi. Có một số binh sĩ tôi chở từ Dunkerque về bàn tán mãi chuyện đó. Con
ngỗng xuất hiện trong những ngày cuối cùng từng chập một giữa khoảng Dunkerque
và Lapanne. Ai mà may mắn được nhìn thấy con ngỗng là kể như sau đó thế nào
cũng được cứu thoát. Bác thừa biết, cái lối nửa hư nửa thực ấy mà…”
..
“Hè…ừ…ừm”, trung tá
Brill Oudener nói, “một con ngỗng hoang à. Theo tôi thấy thì nó đã được dạy cho
thuần thục rồi. Một thứ chi tiết vô cùng kỳ lạ. Bi đát nữa, hiểu theo một cách
khác. Và thật may cho chúng tôi. Để tôi kể cho bác nghe. Đó là chuyến thứ ba
trên đường về. Vào khoảng sáu giờ chiều chúng tôi nhìn thấy một chiếc thuyền
nhỏ trôi giạt, trên thuyền dường như có một người hay một cái xác người nào đó,
và một con chim đậu trên mạn thuyền.
..
Khi tới gần, chúng tôi
bèn đổi hướng tàu để lại xem có chuyện gì. Trời đất ơi, đúng là một người. Hay
đúng ra, trước đó đã là một người. Tội nghiệp hắn! Bị trúng một phát đạn liên
thanh, nói thế là bác cũng đủ hiểu rồi. Bị nặng lắm! Đầu gục xuống nước. Con
chim, một con ngỗng, loài ngỗng đã được huấn luyện thành thục.
..
Chúng tôi ghé lại gần,
nhưng khi một người trong bọn chúng tôi định leo lên thuyền thì con chim kêu
rít lên va dang cánh ra đập hắn. Không lấy được xác gã kia ra. Bất thần,
Kettering, một chú lính trẻ theo hộ vệ tôi, thét lên, giơ tay chỉ xuống mạn tàu
bên phải. Một trái thủy lôi bập bềnh sát bên. Trái thủy lôi khủng khiếp của bọn
Đức. Nếu chúng tôi đi thẳng thì thế nào cũng đụng nhằm trái thủy lôi đó rồi.
Chúng tôi lái tránh cho trái thủy lôi dạt ra xa. Khi nó đã giạt ra xa, cách
chiếc xà lan cuối đoàn chừng một trăm thước, thì mấy anh lính lấy súng nhắm bắn
cho nó nổ tung lên.
..
Khi chúng tôi quay lại
tìm kiếm chiếc thuyền trôi giạt thì nó đã biến đâu mất. Chìm rồi. Thủy lôi nổ,
rung động, làm thuyền lật, bác biết đấy. Kéo theo cả cái gã kẹt trong thuyền.
Tựa như gã cột người gã vào với chiếc thuyền. Con chim bay lên và lượn vòng
quanh. Nó lượn ba vòng tựa như một chiếc máy bay lượn chào làm chúng tôi sững
sờ hồi lâu. Rồi nó bay về hướng tây. Cũng may cho chúng tôi đã lên boong xem,
nếu không thì sao nhỉ? Mà cũng ngộ là bác đã đề cập tới chuyện con ngỗng đó”.
..
Fritha ở lại một mình
trong hải đăng nhỏ bé trên vùng đồng lầy rộng lớn, săn sóc những con chịm bị
xén lông cánh còn ở lại. Cô chờ đợi mà chẳng biết mình chờ đợi gì. Những ngày
đầu tiên cô hay lên bờ biển ngóng chờ, dù cô đã biết là uổng công vô ích. Sau
đó cô thơ thẩn đi khắp các căn buồng để đồ trong hải đăng, nơi chất đầy những
bức hoạ trên đó Rhayader đã mô tả lại tất cả những cảnh trí cùng những tác động
của ánh sáng trên vùng đất hoang vu và vẻ đẹp huy hoàng của các loài dị điểu
sống nơi đó.
..
Trong số tranh ấy cô
gái tìm thấy bức chân dung Rhayader vẽ mình theo ký ức, đã nhiều năm về trước,
hồi cô còn là một cô bé nhỏ xíu, nhút nhát, đầu tóc rối bù đứng bên ngưỡng cửa,
ghì chặt trong lòng con chim trốn tuyết bị thương.
..
Bức họa và những gì cô
gái nhận thức được đã khiến cô xúc động như chưa từng xúc động, vì Rhayader đã
gửi gắm rất nhiều tâm hồn chàng vào đấy. Lạ thay, đó là lần duy nhất chàng vẽ
con chim trốn tuyết, con vật lạc loài, bị bão táp xô giạt đến từ miền đất lạ,
con vật đã mang tình bạn đến cho cả hai người, và chính con vật ấy, cuối cùng
đã trở lại báo cho cô biết là cô sẽ không bao giờ còn gặp lại chàng nữa.
..
Khá lâu trước khi con
chim trốn tuyết từ vùng trời phía đông ửng hồng sà xuống lượn vòng quanh hải
đăng như ngỏ lời chào vĩnh biệt, Fritha nhờ sự linh cảm mẫn tiệp sẵn có trong
cô đã biết trước là Rhayader sẽ không bao giờ về nữa.
..
Cũng chính vì thế, vào
lúc trời chiều, nghe tiếng chim kêu lảnh lót quen thuộc từ trời cao vọng xuống,
lòng cô không trải qua một giây phút hy vọng hão huyền. Giây phút ấy, dường như
cô đã từng sống qua rất nhiều lần, nên không còn ảo vọng.
..
Cô gái hối hả chạy ra
bức trường thành, đôi mắt không hướng ra phía eo biển xa vời mà từ đó một cánh
buồm có thể xuất hiện, nhưng lại ngước lên vòm trời đỏ rực mà, từ đó, con chim
trốn tuyết rơi thẳng xuống như một hòn đá. Cánh chim từ trời cao rớt xuống,
tiếng kêu não nùng của nó, và sự cô quạnh vây bọc quanh cô, đã phá vỡ con đập
ngăn giữ mọi xúc cảm trong cô, thả tung mối tình không ngăn giữ được, không
chối cãi nổi, tuôn trào thành suối lệ.
Một linh hồn hoang dã kêu gọi một linh hồn hoang dã khác, cô có cảm tưởng như mình đang bay theo cánh chim to lớn bay vút lên vòm trời chiều và lắng nghe lời Rhayader nhắn nhủ.
Trời đất như vang vang lời nhắn gửi và cô rung rung theo hoà âm đó với một cường độ vượt quá sức cô. “Frith, Fritha! Frith, em yêu. Vĩnh biệt nhé, người em yêu dấu”. Đôi cánh trắng, có đốm đen, như quạt vào lòng cô những lời âu yếm ấy, và lòng cô đáp lại : “Philip, em yêu anh”.
Một linh hồn hoang dã kêu gọi một linh hồn hoang dã khác, cô có cảm tưởng như mình đang bay theo cánh chim to lớn bay vút lên vòm trời chiều và lắng nghe lời Rhayader nhắn nhủ.
Trời đất như vang vang lời nhắn gửi và cô rung rung theo hoà âm đó với một cường độ vượt quá sức cô. “Frith, Fritha! Frith, em yêu. Vĩnh biệt nhé, người em yêu dấu”. Đôi cánh trắng, có đốm đen, như quạt vào lòng cô những lời âu yếm ấy, và lòng cô đáp lại : “Philip, em yêu anh”.
..
Có một lúc Frith đã
tưởng là con chim trốn tuyết sắp hạ cánh trong khuôn vườn, khi những con ngỗng
bị xén cánh kêu vang lời chào đón. Nhưng nó chỉ sà xuống thấp rồi lại bay vút
lên, luợn một vòng tròn rất đẹp mắt, quanh ngọn hải đăng cổ xưa một lần nữa rồi
bay lẩn trong đám mây cao vút.
Nhìn cánh chim bay vút lên cao, Frith không còn thấy hình ảnh con chim trốn tuyết nữa, mà chỉ thấy linh hồn của Rhayader đến giã biệt cô gái trước khi chắp cánh bay vào cõi hư vô.
Nhìn cánh chim bay vút lên cao, Frith không còn thấy hình ảnh con chim trốn tuyết nữa, mà chỉ thấy linh hồn của Rhayader đến giã biệt cô gái trước khi chắp cánh bay vào cõi hư vô.
..
Cô gái không còn bay
theo cánh chim nữa mà trở lại buộc ràng trên mặt đất. Cô dang hai cánh tay giơ
lên trời, những ngón chân nhón cao, với theo, miệng kêu lên : “Xin trời đưa dẫn
anh, ra đi êm đẹp nhé, hỡi anh Philip của em!”
..
Nước mắt Frith như khô
cạn. Khi bóng chim mịt mù, cô còn đứng đó, âm thầm ngó lên trời cao trong một
hồi lâu. Rồi cô trở lại ngọn hải đăng tìm lấy bức chân dung Rhayader đã vẽ
mình. Ghì chặt bức hoạ vào ngực, cô trở về nhà, đi dọc theo con đê ven bờ biển
cả.
..
Đêm đêm, trong nhiều
tuần kế tiếp sau đó, Frith còn trở lại hải đăng cho lũ chim bị xén lông cánh
ăn. Rồi vào một buổi sớm mai, một phi công Đức trong một phi vụ lúc trời chưa
sáng tỏ đã lầm tưởng ngọn hải đăng cũ hoang phế là một mục tiêu quân sự đang
hoạt động nên nhào xuống như một cánh chim ưng bằng thép và bắn phá ngọn hải
đăng cùng tất cả những gì còn lại trong đó tan thành cát bụi.
..
Tối hôm đó, khi Fritha
trở lại, sóng biển đã ùa qua những bức tường sụp đổ và bao phủ lên tất cả.
Không còn gì sót lại khả dĩ làm cho giảm bớt quanh cảnh ảm đạm thê lương. Không
một cánh chim nào trong vùng đồng lầy dám trở lại. Chỉ có những con hải âu dạn
dĩ chập chờn bay lượn, nức nở kêu thương quanh nơi chốn cũ – nơi mà khi vầng
thái dương mới ló còn là ngọn hải đăng xưa.
..
HẾT
..
(sưu tầm)
..
(sưu tầm)
..
..
(post lại từ Blog ĐK67 cũ 5/6/2009)
P