Saturday, September 10, 2022

Nho sĩ Nguyễn Công Trứ

Xin giới thiệu bài viết ca Thy HÀ THÚC HOAN, cu giáo sư (sau 75 gi là "giáo viên") trường Đồng Khánh- Huế, và là thy giáo cũ dy môn Vit Văn cĐK67 chúng tôi năĐệ Nh (lp 11).

.


(Ngun: Internet)

.
Làm Cây Thông Đng Gia Tri
... 
Nho sĩ – thi sĩ Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858 ) xuất hiện một cách khá đặc sắc và độc đáo trên văn đàn Việt Nam.  Tác giả là con người hành động, được gọi tên là nhà thơ của chí nam nhi. Qua ba giai đoạn của cuộc đời là hàn vi, xuất chính và hồi hưu, nhà thi sĩ đã sống đúng lẽ xuất xử của nho gia để hoàn thành chương trình hành động – lý tưởng sống nhập thế tích cực của một kẻ sĩ. Thế nhưng, vào một giây phút nào đó ở cuối đời, Nguyễn Công Trứ không muốn làm người mà chỉ muốn làm cây thông ở kiếp sau:
..
“Ngồi buồn mà trách ông xanh,
Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Giữa trời vách đá cheo leo,
Ai mà chịu rét thì trèo với thông.”
..
Viết bài Nhàn ngâm này, Nguyễn Công Trứ nhìn nhận có kiếp sau, có tái sanh. Nhưng Phật tử chúng ta không nên căn cứ vào đó để vội vàng kết luận tác giả không hiểu đúng giáo pháp của Đức Thế Tôn(1) khi cho rằng con người có thể tái sinh làm một loài thảo mộc vô tri vô giác, từ đó phê phán nhà thơ là “thoái thác đối với kiếp làm người”, là “ước mơ hão huyền xa vời trong kiếp Tái sinh – Luân hồi …”  
Nghĩ rằng viết mấy câu thơ trên Nguyễn Công Trứ không hề có ý muốn chuyển tải bất kỳ một nội dung giáo lý nào của Phật pháp, chúng tôi  tiếp cận bài thơ theo một hướng khác để có thể hiểu rõ và đúng hơn tâm trạng, hoài bão và lý tưởng sống của tác giả.
Trước hết, cần tìm hiểu rõ hơn lý do không muốn làm người mà nhà thơ đã nêu ở hai câu đầu :
..
Ngồi buồn mà trách ông xanh,    
Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười.”
..
Cuộc đời thì bao giờ cũng vậy, luôn luôn có đủ niềm vui và nỗi buồn. Sống trong cuộc đời ấy, được thành công, người ta thường vui sướng nở nụ cười mãn nguyện, gặp thất bại, người ta có thể khóc để cho tất cả buồn khổ trôi theo dòng nước mắt. Dù sống thủy chung, gắn bó với cuộc đời, Nguyễn Công Trứ đã không thể khóc, cười một cách thoải mái và tự nhiên như thế. Ngoài bốn mươi năm sống trong cảnh nghèo của một hàn sĩ, ba mươi năm xuất chính tiếp theo là khoảng thời gian Nguyễn Công Trứ chịu nhiều thăng giáng liên tục để nếm trải đủ nhục vinh, khóc cười lẫn lộn trên hoạn lộ, từ đỉnh cao của thành đạt là chức Tổng đốc Hải An đến “hố thẳm” của thất bại là thân phận người lính thú ở Quảng Ngãi. Thời hưu trí, dù đã ra khỏi “trường danh lợi vinh liền nhục” nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn không thoát được “cuộc trần ai khóc lẫn cười”. Năm 1852, nhớ công ơn Nguyễn Công Trứ đã mộ dân khai khẩn đất hoang để lập nên xóm làng trù phú, dân huyện Tiền Hải dựng sinh từ để kỷ niệm rồi mời ông ra chơi và đón tiếp trọng vọng như một vị thánh sống. Tất nhiên là Nguyễn Công Trứ  vô cùng hân hoan khi nhìn thấy thành quả mỹ mãn của công cuộc dinh diền mà ông đã thực hiện từ hơn 20 năm về trước. Nhưng tình cảnh oái oăm, trớ trêu của “khi vui muốn khóc” lại tái diễn một lần nữa ở đây. Vì có tên thị vệ sàm tấu Nguyễn Công Trứ có “dị chí” khi để cho dân chúng tổ chức đón rước linh đình, vua Tự Đức nghi ngờ lòng trung thành của ông, cho triệu hồi vị công thần về kinh để xét hỏi cho ra lẽ. Nhờ nhà vua còn có đủ sáng suốt để hiểu rõ tâm can của vị lão thần nên Nguyễn Công Trứ mới may mắn thoát khỏi cái chết bi thương và oan uổng. Sống qua một đời người có quá nhiều buồn vui, khóc cười  lẫn lộn như vậy, vào lúc thư nhàn, Nguyễn Công Trứ có lý do để “ngồi buồn” mà “ngán ngẩm cho kiếp người trôi nổi”. Nhưng nhà thơ của chí nam nhi không có tâm trạng bi quan. Bởi lẽ, như thơ văn và cuộc đời của ông đã chỉ rõ, Nguyễn Công Trứ luôn luôn sống lạc quan tin tưởng, sẵn sàng đối đầu với nghịch cảnh, vượt qua mọi thử thách để thể hiện lý tưởng sống cao đẹp của một người hùng: 
..
“Đã hay đường thế thời ra thế ,
Sạch nợ tang bồng mới kể người.”
..
Chúng tôi nghĩ khi sáng tác bài Nhàn ngâm này, Nguyễn Công Trứ không “bất lực và thoái thác đối với kiếp người”.(4) Trái lại, thái độ chối từ làm người để được làm cây thông ở kiếp sau của nhà thi sĩ đã thể hiện nhiều hoài bão và ước mơ của con người sống trong cuộc đời . Nhà thơ muốn làm cây thông vì thông xanh tươi trên vùng đất sỏi đá khô cằn, thông hiên ngang trong mưa gió rét mướt, thông là biểu tượng của lý tưởng sống “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” của bậc quân tử nho mà Nguyễn Công Trứ là một đại diện. Dùng thi ca để nói lên mong ước tái sinh làm cây thông, Uy Viễn tướng công như muốn thách đố người đời, như muốn nhắc nhở chúng ta hãy vượt qua mọi thử thách và gian nguy để sống vững vàng và có bản lĩnh trong cuộc đời này:
..
“Giữa trời vách đá cheo leo,
Ai mà chịu rét thì trèo với thông.”
..
Điều cần phân tích ở đây là cái dáng “đứng giữa trời mà reo” của cây thông. Để hiểu hết ý nghĩa của hình tượng văn chương này, chúng tôi thực hiện một liên hệ ngoài văn bản bằng cách trích dẫn câu văn biền ngẫu trong bài Tài tử đa cùng phú của Cao Bá Quát ( ? – 1854 ) :
..
Ngán nhẽ kẻ tham bề khóa lợi, mũ cánh chuồn đội trên mái tóc, nghiêng mình đứng chực chốn hầu môn;
Quản bao kẻ mảng cái dàm danh, áo giới lân trùm dưới cơ phu, mỏi gối quỳ mòn sân tướng phủ.”
..
Cao Bá Quát cùng làm quan dưới triều Thiệu Trị với Nguyễn Công Trứ. Bức tranh quan lại triều Nguyễn được Cao Bá Quát vẽ bằng gam màu tối như trên chính là trường danh lợi mà Nguyễn Công Trứ đã từng vào ra nhiều lần. Trong thời xuất chính, đã có khi nhà thơ biết thoát vòng danh lợi, vươn lên trên được mất và khen chê để sống “ngất ngưỡng” giữa triều đình. Tuy thế, trong suốt ba mươi năm làm tôi trung của nhà Nguyễn, dù không đến nỗi phải “mỏi gối quỳ mòn sân tướng phủ”, nhưng vị nho thần Nguyễn Công Trứ có thể đã hơn một lần“nghiêng mình đứng chực chốn” triều đình, không dám mạnh dạn cất lên tiếng nói trí tuệ của bậc sĩ phu đã có lần tự tín, tự hào nhìn nhận “kinh luân khởi tâm thượng, binh giáp tàng hung trung”, để cuối cùng vì “mảng cái dàm danh” mà chỉ còn biết đứng lắng nghe đấng quân vương tự nhận là thiên tử để phán những lời mà trăm họ phải nghiêm chỉnh chấp nhận là ý trời, là khuôn vàng thước ngọc…Có phải vì đã trải qua một thời để cho cái “khóa lợi” trói buộc mà đành phải sống im lặng ở chốn triều đình, nên khi đã hồi hưu, nhà trí thức lỗi lạc của Việt Nam vào tiền bán thế kỷ XIX đã mong ước kiếp sau được sống đời tự chủ, tự do, không “quỳ” mà “đứng”, không “nghiêng mình đứng chực” mà hiên ngang đứng thẳng để dũng cảm nói lên tiếng nói trung thực của mình, như cây thông kia “đứng giữa trời mà reo” trong  gió mưa, sương tuyết ?
..
Kết lại, qua bài Nhàn ngâm này, Nguyễn Công Trứ đã  mượn kiếp sau và nhận thức về sự tái sinh của Phật học để trình bày lý tưởng sống nhập thế tich cực của Khổng học. Vì lẽ ấy, người đọc thơ có ý thức phải biết vượt qua ý nghĩa biểu hiện của văn bản là không muốn làm người ở kiếp sau để tìm đến ý nghĩa tiềm ẩn của tác phẩm là thông điệp mà Uy Viễn tướng công muốn gởi đến những ai đang có mặt ở cõi đời này: Hãy chiêm ngưỡng hình tượng cây thông mà tìm ra bài học về lý tưởng sống cao đẹp để xứng đáng với tên gọi là người. Cho nên nói không muốn làm người mà sự thật là Nguyễn Công Trứ muốn làm người một cách kiên cường, bất khuất. Có thể nói rằng ở đây nhà thi sĩ đã làm văn chương hiểu theo nghĩa là nói điều chưa nói bằng cách phủ nhận điều đã nói. 
.
HÀ THÚC HOAN
 20 - 3 – 12
.
(Post lại)
.....
-Chú thích:
(1) Sự thật là Nguyễn Công Trứ đã có kiến thức đúng đắn và sâu rộng về Phật học.  Bằng chứng là vào những năm cuối thời hưu trí, sau khi bị triệu về kinh vì có tên thị vệ vu khống tội mưu phản, Nguyễn Công Trứ trở về quê cũ là làng Uy Viễn, “bỏ tiền tu sửa chùa Viên Quang và chùa Trung Phu, làm mấy gian nhà tranh ngay bên chùa để ở, thường cùng các Hòa thượng đàm đạo kinh Phật” ( Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, Việt Nam ca trù biên khảo, Tgxb, Sài gòn, 1962, tr. 625 – 626 ). Có thể bài hát nói Vịnh Phật thể hiện sâu sắc tư tưởng  Phật giáo đại thừa đã được tác giả sáng tác trong giai đoạn này...
.
.
.