Sunday, June 25, 2017

Cổ thi: thơ Lý Bạch

Trương Mỹ-Vân (ĐK 67) sưu tầm
.
(Nguồn: Internet)
.
Cổ Thi: Thơ Lý Bạch
Thể thơ: Ngũ Ngôn Cổ Phong
Thời kỳ: Thịnh Đường
.
Sinh giả vi quá khách, 
Tử giả vi quy nhân. 
Thiên địa nhất nghịch lữ, 
Đồng bi vạn cổ trần. 
Nguyệt thố không đảo dược, 
Phù tang dĩ thành tân. 
Bạch cốt tịch vô ngôn, 
Thanh tùng khởi tri xuân. 
Tiền hậu cánh thán ức, 
Phù vinh hà túc trân!

.
Bản dịch của Hải Đà

Sống như khách lạ qua đường 
Mai kia nằm xuống cố hương muốn về 
Đất trời quán trọ lê thê 
Muôn đời cát bụi não nề thương tang 
Thỏ nghiền thuốc mãi trong trăng 
Cành dâu xanh đã võ vàng củi khô 
Lạnh lùng xương trắng co ro 
Thông xanh nào có ước mơ xuân về 
Trước sau đời ngẫm tái tê 
Vinh hoa phú quí có gì đáng đâu!

Bản dịch của Lão Nông
.
Sống ta là khách qua đường 
Còn khi đã chết quê hương tìm về 
Đất trời quán trọ lê thê 
Trần gian cát bụi não nề xót thương 
Cung trăng thỏ nghiện thuốc trường 
Dâu xanh tàn tạ cây dường củi thâm 
Xương màu trắng xóa lặng câm 
Rừng thông xanh lá tưởng nhầm mùa xuân 
Trước sau than thở ngàn lần 
Công danh phú quý phù vân đáng gì!
.
(Nguồn: Internet)
Lý Bạch (chữ Hán: 李白; 701 - 762), biểu tự Thái Bạch (太白), hiệu Thanh Liên cư sĩ (莲居士), là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn danh tiếng nhất thời Thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung.
Suốt cuộc đời của mình, ông được tán dương là một thiên tài về thi ca, người đã mở ra một giai đoạn hưng thịnh của thơ Đường. Ông cùng người bạn Đỗ Phủ trở thành hai biểu tượng thi văn lỗi lạc không chỉ trong phạm vi nhà Đường, mà còn trong toàn bộ lịch sử Trung Hoa, thậm chí toàn bộ khu vực Đông Á đồng văn. Do sự lỗi lạc của mình, ông được hậu bối tôn làm Thi Tiên (詩仙) hay Thi Hiệp (詩俠). Giới thi nhân bấy giờ thì rất kính nể tài uống rượu làm thơ bẩm sinh, nên gọi Lý Bạch là Tửu Tiên (酒仙) hay Trích Tiên Nhân (谪仙人). Hạ Tri Chương gọi ông là Thiên Thượng Trích Tiên (天上謫仙).
Ông đã viết cả ngàn bài thơ bất hủ. Hơn ngàn bài thơ của ông được tổng hợp lại trong tập Hà Nhạc Anh Linh tập (河岳英靈集), một tuyển tập thơ rất đồ sộ thời Vãn Đường do Ân Phan (殷璠) chủ biên vào năm 753, và hơn 43 bài của ông được ghi trong Đường Thi Tam Bách Thủ (诗三百首) được biên bởi Tôn Thù (孫洙), một học giả thời nhà Thanh. Vào thời đại của ông, thơ của ông đã xuất hiện các bản dịch tại phương Tây, chủ đề của ông nhấn mạnh tán dương mối quan hệ bạn bè, sự thần bí của thiên nhiên, tâm trạng tĩnh mịch và thú vui uống rượu rất đặc trưng của ông.
Cuộc đời của ông đi vào truyền thuyết, với phong cách yêu rượu hiếm có, những truyện ngụ ngôn và truyền thuyết về tinh thần trượng nghĩa, cũng như điển tích nổi tiếng về việc ông đã chết đuối khi nhảy khỏi thuyền để bắt cái bóng phản chiếu của mặt trăng.
.
Trương Mỹ-Vân (ĐK 67) sưu tầm
.