Xin giới thiệu bài viết của tác giả BỬU UYỂN (phu quân bạn Lê thị Lệ-Huyền, ĐK67 -B7, A2).
(*** Tác giả ghi lại theo lời kể của một người bạn.)
Đau Khổ Là Một Mầu Nhiệm
* Tác giả: Bửu Uyển (QH 59-62)
Năm 1993, khi mới đến Mỹ, gia
đình chúng tôi tới văn phòng Hội USCC/San Diego để làm giấy tờ của người mới định
cư. Trong khi đang chờ đợi bỗng có một nhân viên ở đó đưa cho tôi tờ nhắn tin
như sau :
"Quí vị nào biết gia đình ông Bửu Uyển ở đâu,
xin liên lạc: Lê Văn Thành, điện thoại số 251 - 446-8353. Địa chỉ: 428 E.
Church St ATMORE, AL 36502 "
Tôi vô cùng ngỡ ngàng và cảm động vì Thành là bạn thân của tôi từ lúc chúng tôi còn nhỏ.
Khi hoàn tất các giấy tờ ở Hội USCC, tôi vội trở về nhà, gọi điện thoại ngay cho Thành. Ở đầu dây bên kia, giọng Thành cảm động:
"Cậu đó hả! Tạ ơn
Chúa, tạ ơn Đức Mẹ, cuối cùng mình cũng gặp lại nhau. Mình tìm kiếm cậu khắp
nơi từ bao lâu nay. Thế gia đình cậu qua Mỹ lúc nào vậy ?"
"Mình qua được đúng
5 ngày "
"Được rồi, đọc lại số điện thoại của cậu và cho mình địa chỉ, vợ chồng mình sẽ qua thăm cậu"
Một tuần sau, vợ chồng Thành qua San Diego thăm chúng tôi. Thành ôm chầm lấy tôi, xúc động nói:
"Thật vui mừng gặp lại
cậu.Trông chờ mãi, lắm lúc mình nghĩ, có lẽ không bao giờ gặp lại nhau. Cậu ốm
quá, nhưng không sao, qua Mỹ một thời gian sẽ mập ra thôi."
Thành quay qua giới thiệu : "Đây là Thoa, vợ mình"
Tôi hơi ngạc nhiên, Thành nói ngay: "Đây là vợ sau của mình. Câu chuyện dài dòng lắm để lát nữa mình sẽ kể
cho cậu nghe."
Tôi trò chuyện với Thành, còn Thoa vui vẻ chỉ dẫn cho vợ tôi một vài kinh nghiệm sống ở Mỹ. Mới
gặp nhau lần đầu, nhưng Thoa và vợ tôi thân mật như đôi bạn quen nhau từ lâu.
Thành kéo tay tôi: "Để
cho hai bà nói chuyện áo quần, bếp núc. Tụi mình đi kiếm gì ăn, rồi mua về cho
mấy cháu."
Ngồi trong một tiệm ăn Việt nam, khi chờ thức ăn mang lên, Thành
nhìn qua cửa sổ, trầm buồn nói với tôi:
"- Anh nhớ không, từ nhỏ, tụi mình thân nhau như anh em ruột,
cùng sinh hoạt Hùng Tâm, Dũng Chí ở giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Huế, cùng giúp
lễ cho Cha Đài, Cha Ngà, Cha Nghiêm, Cha Phúc. Năm 1964, tôi bị động viên vào
Thủ Đức, ra chuẩn úy, về phục vụ ở Sư Đoàn 1. Năm 1968, tôi lập gia đình với
Chi. Hai năm sau, chúng tôi có con gái đầu lòng là bé Oanh. Sau đó chúng tôi có
thêm một cháu trai và một cháu gái nữa. Ngày 30 tháng 4 -1975 ập đến, như một
cơn lốc cuồng loạn, thổi phăng hạnh phúc của gia đình chúng tôi.
Tôi quyết định không trình diện cải tạo, ở lang thang nay đây
mai đó trong thành phố Đà Nẳng, hành nghề xe đạp ôm để phụ với Chi nuôi con.
Còn Chi thì mua bán áo quần cũ ở Chợ Cồn. Vì cuộc sống vất vả, ăn uống thiếu thốn.
lại lo buồn cho chồng, cho con, môt năm
sau Chi nhuốm bệnh. Không được bồi dưỡng, không thuốc thang nên năm 1978, Chi
qua đời. Đám tang của Chi là một đám tang nghèo nàn, tẻ nhạt và cô đơn hơn tất
cả những đám tang trên thế gian này. Chồng của Chi là tôi, đi theo sau quan tài
của vợ mà phải đi xa xa , sợ công an
phát hiện. Nhìn 3 đứa con với vành khăn
tang trên đầu, khóc lóc đi sau quan tài của mẹ, tôi muốn điên lên."
Thành quá xúc động, lấy khăn lau nước mắt , rồi anh kể tiếp :
-Sau đó, 3 đứa con của
tôi được các Soeurs Dòng Thánh Phaolô
đem về nuôi như những trẻ mồ côi khác. Buồn khổ quá, tôi thất thểu đạp
xe vào tận nhà thờ Đà Nẵng, đi đến trước hang đá. Tôi ngước nhìn lên tượng Đức
Mẹ, bỗng nhiên nước mắt tôi chảy ràn rụa,
tôi khóc, khóc thành tiếng, mặc cho nhiều người chung quanh nhìn tôi, tôi thấy
lòng vơi đi bớt sầu khổ. Tôi lại nhìn lên tượng Đức Mẹ. Tôi nghe như Đức Mẹ an ủi
tôi: "Hỡi con, hãy can đảm lên, phấn
đấu để sống cho con và các con của con, chúng rất cần sự yêu thương của con.
Con hãy trông cậy vào Chúa. Chúa không bỏ con đâu."
Tôi như bừng tỉnh. Tôi tạ ơn Đức mẹ.
Cuộc sống của tôi thật vô cùng khốn khổ, nhưng ngày nào tôi cũng
đến viếng Đức Mẹ và cầu xin Đức Mẹ từ bi , nhơn hậu phù hộ, cứu giúp cho cha
con chúng tôi.
Bỗng một hôm, mẹ vợ của tôi đến gặp tôi, khi tôi đang đón khách ở
Chợ Cồn. Bà hốt hoảng bảo tôi : "Con
nên rời khỏi nơi đây ngay, họ đã biết có con ở đây. Mấy hôm nay họ lùng sục ở mấy
nhà quen rồi, hiện nhà mình bị canh chừng kỹ lắm. Con nên đi vô Nam, trong đó đất
rất rộng, người đông, không ai biết ai, dễ sống. Ba đứa nhỏ đã có các Soeurs và
mẹ lo cho, con cứ an tâm đi đi."
Tôi về ngay nhà trọ, lấy vội cặp áo quần cũ, với vài vật dụng
linh tinh, cho vào một giỏ đệm, treo lên ghi đông xe đạp. Rồi đạp xe về hướng
Nam. Nghĩ lại, thật nực cười cho tôi vì tôi tính đi vào Sài gòn bằng chiếc xe đạp
cũ kỹ của mình.
Nhưng ngày qua ngày. Tôi đến Tam Kỳ, rồi Quảng Ngãi. Đi đến đâu,
hành nghề xe đạp ôm đến đó để sống.
Tôi đi lần vào Nam. Hơn một tháng sau, tôi đến thị trấn Tam
Quan, tình cờ khi tôi lân la ở bến xe để đón khách, tôi xin một xe chở hàng cho
tôi đi quá giang vào Nha Trang. Xe đến Nha Trang lúc 7, 8 giờ tối gì đó.
Tôi mua một ổ bánh mì, ăn vội , rồi lững thững đạp xe đi trong một
thành phố hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Khi đi ngang qua một nhà thờ, tôi ghé
vào, nhưng nhà thờ đã đóng cửa. Tôi đi ra hang đá ở cuối nhà thờ, quì xuống. Tôi
lại khóc khi nhìn lên tượng Đức Mẹ. Không hiểu sao cứ mỗi lần nhìn tượng Đức Mẹ
và cầu nguyện với Đức Mẹ là tôi khóc, khóc sướt mướt như một đứa trẻ làm
nũng với mẹ vậy.
Trong hoàn cảnh tuyệt vọng của tôi, nếu không có lòng cậy trông
vào Đức Mẹ, chắc tôi không sống nỗi.
Rời hang đá Đức Mẹ, tôi lại tiếp tục đạp xe đi lang thang trong
thành phố Nha Trang đã lên đèn.
Quá mệt mõi và chán nãn, tôi dừng xe trước một căn nhà đã đóng cửa
đi ngủ. Nhà ấy có một mái hiên khá kín đáo, có thể giúp tôi ngũ qua đêm được. Dựng
xe đạp vào vách tường, tôi nằm lăn ra ngủ. Đến quá nửa đêm, tôi giật mình thức
giấc vì người trong nhà ấy đã thức dậy. Tôi ngạc nhiên vì trời còn tối (có lẽ
khoảng 3, 4 giờ sáng gì đó) họ thức dậy làm gì mà sớm vậy ! Nhưng chỉ một lát sau, khi nhìn những
túi xách nhỏ, gọn gàng của họ, nhìn những gương mặt ngơ ngác, lo lắng, sợ sệt của những người trong gia đình...tôi hiểu
ngay: họ đang chuẩn bị đi vượt biên. Một người đàn ông ra mở cửa để đi, họ thấy
tôi ngồi đó, ai cũng ngỡ ngàng, pha chút bối rối. Tôi đánh bạo nói: "Các bác đi đâu cho tôi theo với."
Người đàn ông quay nhìn vợ, ngần ngừ một lát rồi ông ta quyết định :
"Được rồi! Anh muốn đi , tôi cho anh đi, cùng sống cùng chết với nhau."
Ngay lúc đó, một chiếc xe Lam 3 bánh dừng lại trước nhà, đưa gia
đình ấy và tôi đến một bãi biển khá xa thành phố. Mọi người lên một ghe nhỏ,
chèo tay, đưa ra một ghe lớn đậu tít ngoài khơi. Trước lúc trời sáng, ghe nổ
máy ra đi. Người đàn ông, chủ ghe, tên Đông, giao cho tôi nhiệm vụ tát nước khi
dưới khoan thuyền có nước. Khoảng 15 phút sau, ghe chạy đều đều trên biển, tôi
làm dấu thánh giá và đọc kinh, tạ ơn Đức Mẹ. Tôi biết, tôi tin, chỉ có Đức Mẹ mới
sắp xếp được cho tôi chuyến vượt biên kỳ lạ như vậy.
Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, chúng tôi được tàu kéo đến
trại PALAWAN bình yên. Ở trại một thời gian, tôi được IOM cho đi định cư ở Mỹ.
Vì tôi không có thân nhân ở Mỹ nên hội USCC đã nhờ Linh Mục Michael ở ALABAMA bảo
trợ cho tôi. Cha Michael là Cha Xứ của họ đạo "Our Lady of Perpectual Help
Church" ở thành phố ATMORE. Cha Michael cho tôi làm công việc chăm sóc cây
cảnh, vườn cỏ của Giáo xứ, với mức lương tôi không dám mơ ước: 600 đôla/tháng.
Mỗi tháng tôi gởi ít tiền về cho cơ sở dòng Thánh Phaolô ở Đà Nẳng để quí
Soeurs lo cho các trẻ mồ côi, trong đó có 3 con của tôi. Trong những ngày chăm sóc cây cảnh cho giáo xứ,
tôi thấy một bé gái khỏang 9, 10 tuổi thường đến xem tôi làm việc. Thấy cháu bé
có nét người Việt Nam, tôi tò mò hỏi: "Cháu
tên gì?"
Em bé ngạc nhiên, vui mừng nhìn tôi và trả lời :"Bác là người Việt Nam hả ?" Từ đó,
tôi có một người bạn nhỏ, và duy nhất vì trong giáo xứ toàn người Mỹ. Tên của
cháu bé là Kathrine.
Giáo xứ có một nhà kho khá rộng, Cha Michael sơn quét sạch sẽ
cho tôi làm chỗ ở. Mùa đông 1981, tôi bị cảm cúm nặng, nằm liệt giường. Một
hôm, tôi thấy bé Kathrine đi thơ thẩn
ngoài vườn hoa của giáo xứ, có lẽ cháu đi tìm tôi. Tôi cố gắng ngồi dậy, mở cửa
gọi cháu. Kathrine chạy đến, thấy tôi tiều tụy, xanh xao, bé ôm lấy tôi và khóc
rưng rức. Tôi kể cho bé Kathrine nghe, tôi bị cảm cúm mấy hôm nay, nhưng không
biết nhờ ai đưa đi bác sĩ. Bé Kathrine
chạy vội về nhà, một lát sau trở lại với một bà đứng tuổi, tôi đoán là mẹ của
cháu. Vừa gặp tôi, bà ấy nói ngay : "Bác
là bác Thành phải không, tôi thường nghe con gái tôi nói về bác, cháu nó mến
bác lắm. Cháu vừa cho biết bác bị cảm cúm, mà không ai đưa đi bác sĩ. Tôi là
người đồng hương với bác, để tôi giúp bác."
Từ đó, tôi có thêm một người bạn, ngoài cháu Kathrine. Bà ấy tên
Thoa. Năm 1969, bà kết hôn với một sĩ quan không quân Mỹ ở Biên Hòa. Năm 1971,
bà theo chồng về Mỹ. Không may cho gia đình ấy, năm 1976, chồng bà qua đời vì một
tai nạn xe cộ.
Ngừng lại một lát, Thành
kể tiếp:
- Biết được hoàn cảnh của cha con tôi, bà ấy thường gởi tiền về
nuôi các con của tôi. Trước các dịp lễ lớn như Noel, Tết, bà gởi cho con tôi những
thùng quà rất có giá trị. Quí Soeurs ở Việt Nam thường gởi thư qua cám ơn vì quà của bà gởi về, ngoài 3 con của tôi được
hưởng, Soeurs còn phân phát cho các em mồ côi khác nữa. Tôi mang ơn bà ấy! Tôi
còn nhớ , trong một party của giáo xứ nhân ngày đầu năm, Cha Michael gặp chúng
tôi, nửa đùa nửa thật, Cha nói với chúng
tôi: "Có gì ngăn trở đâu, sao ông bà
không kết hôn với nhau!" Tôi nhìn bà ấy, bà mĩm cười.
Sau khi chúng tôi kết hôn
với nhau, Thoa làm đơn bảo lãnh 3 con của tôi qua Mỹ. Vì Thoa có quốc tịch Mỹ,
lại có đầy đủ tài chánh nên chỉ một thời gian ngắn, cả 3 con của tôi đã đoàn tụ với tôi ở Mỹ. Việc đoàn tụ một cách
lạ lùng của cha con chúng tôi, làm cho tôi tin rằng: "Không có việc gì mà Đức mẹ không làm được,
nếu ta thành khẩn kêu xin!"
Tôi nhớ lại ngày xưa,
Cha Ngà (Dòng Chúa Cứu Thế) thường giảng rằng: "Đau khổ là một mầu nhiệm!" Lúc ấy. tôi không hiểu Ngài muốn dạy
điều gì. Nhưng sau mấy chục năm gian khổ
của cuộc sống, với ơn Chúa giúp, với sự phù hộ của Đức Mẹ, tôi đã có thể chịu đựng, và vượt qua mọi đau khổ, nhờ vậy, tôi thấy mình lớn lên
trong đức tin, bền đỗ trong đức cậy và dạt dào lòng yêu mến Chúa.
Tôi cũng bắt đầu cảm nhận rằng: Lòng Mẹ Maria yêu thương tôi không những chỉ là những hồng ân tốt đẹp mà Mẹ đã ban cho tôi, mà ngay cả những đau khổ, khốn khó tôi đã gánh chịu, cũng nói lên lòng Đức Mẹ yêu thương tôi biết dường nào!
Xin tạ ơn Chúa, tạ ơn Đức Mẹ.
Bửu Uyển (QH 59-62)