Nhà văn TÚY HỒNG tên thật là Nguyễn thị Túy Hồng, sinh năm 1938, đã qua đời hôm 19 -7 -2020 tại Seattle, Washington, Hoa Kỳ, thọ 82 tuổi.
Bà sinh ra và lớn lên tại Thừa Thiên, Huế, và là một trong 5 nhà văn nữ nổi tiếng cùng thời: Nhã Ca, Nguyễn thị Hoàng, Trùng Dương, Nguyễn thị Thụy Vũ.
Bà rất nổi tiếng thời đó (trước năm 75) bởi những tác phẩm với văn phong và đề tài đầy cá tính khác biệt và đầy chất Huế...
Bà rất nổi tiếng thời đó (trước năm 75) bởi những tác phẩm với văn phong và đề tài đầy cá tính khác biệt và đầy chất Huế...
Mời các bạn đọc một trong những đoản văn đặc sắc của Bà để tưởng nhớ người nữ sĩ xứ Huế thân thương.
.

Nhà văn Túy Hồng
(1938 - 2020)
XIN LỖI HUẾ
Anh Đỗ,
Tôi đã ở Huế từ trong bụng mẹ đến cuối năm thứ
hai mươi tám của cuộc đời. Huế đã mang thai tôi, đẻ ra tôi cho đến khi tôi đi
lạc vào Sài-gòn. Từ hơn hai năm nay tôi ở nhà thuê, nói tiếng Bắc, ăn chả giò,
ăn bún riêu, canh chua cá dấm, thịt bò vò viên, mía ghim… Hôm nào anh vào
Sài-gòn tôi sẽ đãi anh ăn một bữa thịt bò bảy món (mọi lần gọi là “bò bụng” vì
ăn vào đầy một bụng thì thôi). Đàn ông ở Sài-gòn ăn chua dữ lắm anh Đỗ ạ! có
nhiều ông vác cả trái cốc dầm cam thảo vừa đi vừa ăn lêu nghêu dọc đường.
Tôi vào Sài-gòn đã hơn hai năm mà vẫn còn hụt
chân chưa đứng vững được, nghĩa là: tôi chưa hề viết được một chữ về cái
Sài-gòn này. Khiếp quá! một lỗ hổng lớn… Còn nhớ thời gian ở Huế, khi tôi mang
ý định bỏ Huế vào Sài-gòn ra nói với anh thì anh đã làm ra như cản như không:
Chị chuồn hả? mình ở Huế có ai làm gì mình được?
Mình ở Huế có ai làm gì mình được … nghe thấm
thía, thấm như nước mắm thấm vào cá nục kho khô trong trách đất. Tôi vào
Sài-gòn đâu phải là một cuộc tháo thân, vì đâu có biết trước rằng trong tương
lai Huế sẽ trải qua vụ đổ huyết rợn gáy lịch sử là cái biến cố Mậu-thân vừa
rồi. Hồi đó chúng ta đã chẳng bàn với nhau: Cộng-sản chắc không chịu đánh Huế
đâu? chẳng thêm cho họ được chút gì cả. Cái gọi là quân sự đâu phải là đất thần
kinh nhà mình. Rồi chúng ta nhìn Sài-gòn, nhìn Nha-trang, nhìn Đà-nẵng bằng cặp
mắt lo ngại… Bây giờ mới biết Huế đã đứng thật gần lịch sử!
Tôi cam đoan không có người Huế nào yêu Huế
bằng tôi mặc dầu tôi đã bỏ Huế mà đi gần ba năm nay. Tôi là một trong những
người yêu Huế nhất với cái bằng chứng: tôi chỉ viết được lai rai vài ba tác
phẩm thôi mà cuốn nào cũng nói về Huế. Huế! Huế! hễ cứ cầm cây bút lên là Huế!
(Tôi yêu Huế chứ không phải yêu người Huế). Phải là một thứ tình đậm đặc, kéo
xiết khốc ác và cưỡng bức thế nào tôi mới viết về Huế hết mình như vậy! Mặc dầu
có những người Huế không bằng lòng tôi viết ra một cái-Huế-như-vậy! Nhưng văn
chương là viết những điều mình nghĩ và không làm dáng. Tôi chỉ đặt vấn đề là
tôi thương Huế mà thôi! Bỏ Huế mà đi lòng nhớ trời, nhớ khoảng thiên nhiên. Tôi
không yêu một thứ vẻ đẹp cấm cung, một thứ vẻ đẹp hạn hẹp, mà yêu bao la cả một
khoảng thiên nhiên. Huế đẹp từ một vũng nước đọng bên đường đến lượng cả con
Hương-giang, từ cọng rau muống bờ hồ đến cây phượng già xanh lục. Có nhiều hôm
đi xe đạp lên cầu ga nhìn dãy núi lam phía sau cầu Bạch-hổ mịt mịt mùng mùng mà
tưởng cái phần hồn của từng kiếp người cũng có thể dăng dài keo kéo dãy như
vậy! Những đêm mùa đông, những con “ệng oạng” kê mõm khoắc khoải kêu khan từ
những ao rau muống… Kêu chi mà khổ, mà trầm thống! Thêm vào đó, tiếng rao hàng
dài lê lết: mua trứng lộn! mua trứng lộn… Trời ơi! tiếng kêu của miếng ăn sao
mà buồn đến thế! nhức xương buốt tủy mất! Tưởng tượng mở cửa kêu vào chắc mình
phải ôm cô hàng trứng mà khóc ngất! Rồi cái quán cơm, quán cơm cũng mang tên
Âm-phủ ăn dưới ngọn đèn tù mù… và con đường Âm-hồn, tiếng chuông chùa Diệu-đế…
Cực lòng quá Huế ơi! Tôi đi! Tôi đi… ở với Huế buồn lắm… Vào Sài-gòn họa may có
một nụ cười…
Buổi sáng tôi đi, tôi ôm gói áo quần xuống phi
trường Phú-bài. Huế của tôi, tôi biết, không bao giờ khóc người đi và cũng
chẳng bao giờ mừng người trở lại. Huế của tôi không yêu ai mà cũng chẳng phản
bội ai.
Anh Đỗ, khi chân vừa chấm đất Sài-gòn, tôi nhìn
lại chiếc tàu bay mà lòng co quắp đau đớn: thôi! mất Huế hẳn rồi. Tôi thương
con đường Phan Chu Trinh với ngôi nhà thềm trắng, bồn hoa violette, hai cây dừa
xiêm giắt những gói muối, và bến sông thân yêu trước mặt. Tôi biết rằng rồi đây
người Huế sẽ lần lần từng người từng người rủ nhau bỏ đi. Vì đó là mảnh đất tán
chứ không phải tụ. Trời ơi! ra đi như vậy thì còn để ai ở lại mà ngắm, còn để
ai ở lại mà làm người mộng áo trắng qua cầu, tóc thề vương vương con đò
Thừa-phủ. Ngày chưa chia ly, ngày Huế chưa chia ly với tôi và với những người
khác, dân cư cũng đã quá thưa thớt, nhà cửa cũng ít ỏi… Năm 1963, hai chiếc
taxi Sài-gòn ra Huế chạy rước khách kiếm sống nhưng không kiếm được chút đỉnh
gì đành phải quay lui lại Sài-gòn. Anh Đỗ, Huế thừa lẽ sống nhưng lại thiếu kế
sống. Thành phố rất tinh thần, chỗ đất rất thần kinh. Những ai không chịu được
nỗi buồn cưỡng bức, những ai giá áo túi cơm đều tìm không ra lẽ để sống với
Huế. Tôi đã ra đi vì sợ nỗi buồn cưỡng bức, vì không ngửi thấy nguồn hương tinh
thần dành an ủi những tâm hồn không bao giờ chịu xa Huế. Chỉ có những người
chung thủy với Huế nhất mới ngửi thấy nguồn hương tinh thần đó. Vì rằng ngày
xưa khi vua đầu triều nhà Nguyễn đang tâm niệm tìm một chỗ đất đóng đô thì thần
linh hiện lên bảo: “hãy đứng bên trên đầu tổ quốc, hãy thắp một cây hương rồi
lần theo phương Nam mà đi xuống, đến chỗ nào cây hương tắt thì hãy đóng đô.” Vì
lẽ đó Huế là đất thần kinh. Kinh đô thần linh đối với những kẻ đeo chiếc mũi
phàm tục chai sạn không ngửi thấy nguồn hương tinh thần đầy an ủi là một giải
đất buồn phải không anh Đỗ. Buồn quá mà tôi đi phải không anh Đỗ? phải không
Huế?
Anh Đỗ! chào anh.
TÚY-HỒNG
(Văn số Xuân Kỷ Dậu 1969)