(Truyện ngắn sưu tầm)
. .
. .
(Hình: Internet).
Phận Người..
.
Tác giả: Hoàng Long Hải
.
Tác giả: Hoàng Long Hải
.
Thịnh đẹp.
Ai cũng nói Thịnh đẹp.
Ngay từ khi còn bé, Thịnh cũng biết Thịnh đẹp.
Hồi ấy, ba Thịnh là công chức cao cấp ở tỉnh, nên ông thường
tham dự các buổi lễ ở chùa, nhà thờ và được mời tham dự các buổi diễn văn nghệ.
Vừa là con út, vừa đẹp, Thịnh thường được ba Thịnh dẫn “con gái cưng” đi theo.
Dĩ nhiên, mẹ Thịnh cũng cưng Thịnh như vậy. Thịnh được mẹ chăm
sóc việc ăn, mặc, nhất là mặc, khi Thịnh đã là “con gái."
Khi còn mặc đầm, mẹ Thịnh lo mua sắm áo đầm cho Thịnh. Lớn hơn,
tức là khi Thịnh qua khỏi bậc tiểu học, lên trung học, Thịnh không còn mặc đầm
mà mặc áo dài. Áo dài mặc đi học, theo qui định của trường, là áo trắng. Những
ngày lễ, đi phố, đi chơi, Thịnh mặc áo màu. Có nhiều màu Thịnh rất thích, nên
Thịnh có ít nhất sáu, bảy cái áo cho những màu ấy. Thứ nhất, thích màu tím,
Thịnh thường mặc áo màu tím than, là màu của thi ca, của thời trang, màu
“thịnh” của con gái thời ấy. Ấy là “Màu thời gian không xanh, màu
thời gian tím ngắt” như trong thơ Đoàn Phú Tứ. Đó cũng là “màu của chiều hoang”. “Chiều hành
quân, qua những đồi sim, màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biên biệt”. Áo
màu tím Thịnh thường mặc vào những chiều cuối thu, khi có những “chân trời tím”, như
trong một cuốn tiểu thuyết. Mùa xuân, Thịnh mặc màu hoàng yến, cho hợp với
tuổi xuân của Thịnh. Mùa hè, Thịnh mặc áo màu thiên thanh. Cả ba mầu ấy, đều
thích hợp với màu da trắng của Thịnh. Ngoài ra, Thịnh có những áo bông với
nhiều màu khác nữa, nhưng chỉ là áo phụ, để mặc khi không có... mục đích gì cả
hay cho có vẻ người lớn một chút.
.
Ra phố, Thịnh có thể ghé vào một sạp vải hay một cửa hàng vải nào đó, xem vải, chọn màu và nói với bà chủ: “xé cho cháu một áo.” Xong, Thịnh cầm áo đến thợ. Mẹ Thịnh sẽ đi phố, và ghé vào trả tiền ở nơi nào người ta đã “xé một áo” cho Thịnh. Thịnh không phải lo nghĩ về chuyện đó.
.
Ra phố, Thịnh có thể ghé vào một sạp vải hay một cửa hàng vải nào đó, xem vải, chọn màu và nói với bà chủ: “xé cho cháu một áo.” Xong, Thịnh cầm áo đến thợ. Mẹ Thịnh sẽ đi phố, và ghé vào trả tiền ở nơi nào người ta đã “xé một áo” cho Thịnh. Thịnh không phải lo nghĩ về chuyện đó.
.
Với quê hương, Thịnh có những nơi vui chơi khác nhau. Huế, nơi
Thịnh học đệ nhị cấp, Thịnh thích đi dạo phố vào chiều thứ bảy, chủ nhật. Đi
dạo phố, Thịnh thường nhìn lén mình trong tủ kiếng, xem thử Thịnh đẹp như thế
nào. Thịnh ghé vào nhà sách, tìm sách để mua, và ban cho anh chàng nào theo
đuôi Thịnh bằng một cái nhìn “chết người”. Chưa bao giờ Thịnh thấy “Chiều
nay em ra phố về, thấy đời là con nước trôi”, là “những quán không”,
là “những chuyến xe người ta chia tay cuối đường” như trong
bài hát của một nhạc sĩ nào đó, Thịnh không quan tâm.
Thích nhất là những chiều cận tết, Thịnh đi xem chợ hoa bên cạnh
đầu cầu Trường Tiền. Nó có đủ những hoa thật, hoa giả, hoa người, và những đứa
con gái đẹp như Thịnh, đẹp hơn Thịnh. Bọn con gái đẹp có sức hút đến với nhau,
để so đẹp, khoe áo, giày, guốc và cười mấy thằng con trai ngớ ngẩn chạy theo
làm những cái đuôi. ..
Chiều thứ sáu, Thịnh hối hả ra bến xe lô Huế - Quảng Trị sau khi
tan trường. Thịnh về thăm mẹ, thăm gia đình mỗi cuối tuần.
.
Hôm ấy, Thịnh là người khách cuối cùng. Khi Thịnh vào xe, người
ngồi bên cạnh Thịnh là một thanh niên, có lẽ là một sinh viên đại học Huế. Băng
ghế chật, những bốn người. Người thanh niên ngồi thu lu, hình như anh ta không
dám nhúc nhích, sợ đụng chạm đến người Thịnh. ..
Xe qua khỏi cầu Phò Trạch thì trời đã tối hẵn. Đây là một khu rừng
tràm thấp, phía núi là đường xe hơi - Quốc lộ 1 - phía biển Đông là đường xe
lửa. Hai con đường, ở quãng nầy, gần như song song. Có chiếc xe lửa đang chạy
xình xịch bên ấy. Thịnh thoáng thấy người ngồi bên cạnh nghiêng đầu nhìn về
hướng chiếc xe lửa. Anh ta nói, như để chính cho anh ta nghe: “Đẹp quá!”. Thịnh
tự hỏi: Cái gì đẹp? Thịnh đẹp? Nếu thấy Thịnh đẹp sao nãy giờ anh ta không nói
gì, nhất là khi trời còn sáng, mới thấy Thịnh đẹp được chứ. Còn bây giờ thì
trời đã tối rồi. Có lẽ anh nói hình ảnh chiếc xe lửa đẹp vì Thịnh thấy anh ta
nhìn chăm chú về phía ấy. .
.
Chiếc xe lửa như con thú dữ, màu đen hùi, nổi lên khỏi những cây
tràm thấp, in hình lên bầu trời còn sáng mờ mờ. Con quái vật lao tới, hơi nước
từ đầu máy tỏa lên trời cao. Thỉnh thoảng nó thét lên tiếng còi rền rỉ, và khói
từ ống khói tỏa ra.
Cùng với khói tuôn ra là những đốm lửa nhỏ. Những đốm lửa bay
tỏa quay cuồng trong không gian, như ngàn vạn tinh cầu trong vũ trụ đen tối bao
la. Chúng bay lên cao, tỏa ra xa, rơi xuống từ từ và tắt ngấm đâu đó, trong
những gốc tràm đen đủi. Tinh cầu đã tắt. Bao giờ thì tinh cầu của loài người sẽ
tắt. Thịnh tự nghĩ như vậy? Tinh cầu tắt rồi, không chỉ nhân loại mà mọi sinh
vật trên địa cầu nầy sẽ chìm vào
Thịnh nhớ hình như thầy giáo có nói tới điều ấy, nói tới cái
tuổi của địa cầu. Tuổi ấy có thể là năm sáu triệu năm. Địa cầu mới đi được một
nửa cuộc đời của nó, và nó còn một nửa đời nữa. Tới cuối đời, lúc nó tắt ngấm
như đốm lửa phun ra từ ống khói đầu máy xe lửa, thì cuộc đời Thịnh đã qua rồi,
qua quá lâu! Sự tàn tạ ấy, đâu phải sẽ xảy ra ngày mai, ngày kia mà khiến cho
Thịnh phải lo. Dù sao, cái đẹp của vũ trụ, bóng tối, sẽ diệt vong......trong
ý nghĩa tương đối nào đó, sẽ là cái đẹp vĩnh cửu.
.
Tuy nhiên, tiếng khen và cái nhìn của người thanh niên ngồi bên
cạnh, tuồng như đánh thức một ý niệm nào đó, về sự tồn tại, sự “hiện hữu”, của
lời thầy giáo dạy môn triết, về vũ trụ mà nó đã nằm sâu trong tiềm thức từ lâu
rồi. Dù sao thì hôm nay, nó cũng đánh thức một ý niệm về cái đẹp của vũ trụ mà
người thanh niên đã chỉ cho Thịnh thấy. Thịnh có cảm tình với anh ta.
Trí thức, phải có một cái gì sâu sắc hơn người!
Thịnh nói một mình, cũng hình như nói với anh ta: “Tuần tới thử
về quê bằng xe lửa, coi có vui hơn không?”
Người thanh niên nghĩ rằng Thịnh nói với anh, nên anh ta trả lời:
- “Thích thú hơn mà buồn hơn! Cô ạ!”
Thịnh nói:
- “Vậy thì tôi sẽ đi coi thử nó buồn như thế nào!”
Thế rồi hai người nói chuyện với nhau, dè dặt vì mới gặp lần
đầu, cho tới khi xuống xe.
.
Chiều thứ sáu tuần sau, Thịnh lên ga Huế để đi xe lửa về Quảng
Trị. Khi Thịnh đi vào cửa bên phải để vào chỗ quầy bán vé thì anh ấy đứng ngay
cửa. Chờ Thịnh hay tình cờ mà gặp? Rõ ràng là anh ấy làm như “tình cờ” vì khi
Thịnh đi tới chỗ bán vé thì anh ấy nói: “Tôi mua giùm cho cô rồi”.
Ở cái tuổi trên dưới hai mươi nầy, bọn con trai không khôn ranh
bằng bọn con gái. Giả làm tình cờ gặp mà mua vé trước thì tình cờ thế nào được?
Biết vậy Thịnh hỏi:
- “Anh chờ em có lâu không?
- “Không lâu lắm.” Đó là câu trả lời hay là lời thú nhận biết sẽ
gặp Thịnh?!
Thế rồi Thịnh cùng anh ấy ra sân ga.
.
Đường xe lửa “thống nhất” Saigon - Đông Hà khánh thành khoảng
năm 1957. Từ Saigon ra Huế, đoàn xe lửa dài tới ba chục toa, kéo bằng đầu máy
chạy dầu cặn, có khói mà không có lửa như đầu máy chạy bằng hơi nước. Từ Huế ra
Đông Hà, đoàn xe được kéo bằng đầu máy xe lửa cũ, chạy bằng hơi nước. Xe đã chờ
sẵn trong sân ga, chờ khi đoàn tầu từ Saigon ra, khoảng một giờ sau, sau khi
sang khách và hàng hóa xong thì khởi hành. Khách đi Saigon - Huế thì đông. Huế
đi Đông Hà đâu có bao nhiêu nên đoàn tầu chỉ có vài ba toa.
Đầu máy màu đen, các toa xe cũ kỹ màu xám đen. Sau khi rít lên
hai hồi còi dài con tàu xục xịch chạy ra khỏi sân ga khi trời sập tối. Chưa
được bao lâu, xe lửa sắp qua cầu trên sông Hương, lại rít lên hai hồi còi dài
nữa. Tiếng còi xe lửa chạy bằng máy hơi nước, làm Thịnh nhớ lại một đoạn giảng
văn đã học của Lê Văn Trương trong cuốn tiểu thuyết “Tôi là mẹ” của ông.
“Tầu “Cờ lốt sáp”, trước khi nhổ neo, theo lệ thường, rút lên ba
hồi còi. Còi rút thất dài, hùng dũng bao nhiêu thì ai oán bấy nhiêu...”
.
Thịnh không thấy cái hùng dũng trong những hồi còi của đầu máy
xe lửa từ Huế ra Quảng Trị. Thịnh cũng không thấy ai oán như tác giả muốn nói.
Thịnh chỉ thấy buồn, một nỗi buồn nhẹ nhàng và bâng khuâng. Tiếng còi tầu nhắc
Thịnh nhớ đến mẹ, đến thành phố nhỏ của Thịnh, đến những chiều Thịnh đi dạo bên
bờ sông Thạch Hãn, chợt nghe tiếng còi tầu và ngó lên phía cầu ga. Một con tầu
đen lầm lũi chạy qua cầu ga hay cầu Bầu Vịt ở bên cạnh, có một luồng khói trắng
tỏa ra phía sau con tầu. Nó làm Thịnh nhớ cái sân ga nhỏ của thành phố nơi
Thịnh sinh trưởng, những khi tầu đến rồi đi, không có lắm người đưa tiễn, nhưng
hình như nó cũng mang đầy nỗi buồn của những sân ga vắng vẻ, một nỗi buồn dài
dằng dặc, lặng lẽ, kéo dài từ sáng đến chiều, từ chiều đến đêm khuya. ..
Chính là những đêm khuya, sau khi nằm trong chăn, nghe tiếng còi
tầu từ xa vọng về, trí Thịnh bỗng hiện ra cái sân ga vắng vẻ đó, tưởng có ai
đang vội vã lên tầu, có ai đang đưa tay lau giọt nước mắt, tiễn một người đi
xuôi về phía nam xa lắc, mờ mịt, và biết có một ngày trở về hay không. ..
Tiếng còi tầu cũng làm cho Thịnh nghĩ tới sông Thạch Hãn, con
sông trầm lặng và buồn bã, tỏa lên những luồng hơi nước mong manh, che mờ một
phần khung cảnh hiu quạnh bãi cát vắng vẻ bên kia sông, hay rặng tre đen bên
phía đó, rặng tre chạy dài cho tới cuối sông.
Với nỗi buồn vu vơ ấy, Thịnh lặng lẽ ngồi im trong toa tầu, có
một chút hơi lạnh từ cửa sổ toa xe bay vào. Thỉnh thoảng, có vài hạt lửa nhỏ
bay vào trong toa, như một tinh cầu đi lạc, thoát ra ngoài vũ trụ, rồi tắt ngấm
dâu đó dưới hàng ghế ngồi dài dọc theo thành toa.
Có lẽ trân trọng trước sự im lặng của Thịnh, anh ấy không nói
một lời, cho đến khi tầu vào ga. Thịnh vội vàng chào anh ấy với một nụ cười
tươi như Thịnh thường có, rồi vội vàng lên xe xích-lô để mau về với mẹ.
.
Tuần tới, Thịnh lại cùng vè quê bằng xe lửa với anh ấy. Khi đã
vào ngồi trong toa, trời còn sáng, anh ấy đưa cho Thịnh một bài thơ do anh ấy
chép tay. Thịnh còn nhớ và ghi lại vào đây:
.
Đón Em
.
Ngược lại một đường tàu để đón em từ một sân ga
Ðường vô như rất xa
Bánh tàu lăn không ăn hết đường thương nhớ.
Cùng một đường đi quanh co lối ngõ
Nhìn hai bên thêm thấy rõ lòng em.
Yêu nhau từ một ánh đèn
Rồi trên những chuyến tàu để tàu đi, đi mãi.
Ngược lại một đường tàu để đón em từ một sân ga
Ðường vô như rất xa
Bánh tàu lăn không ăn hết đường thương nhớ.
Cùng một đường đi quanh co lối ngõ
Nhìn hai bên thêm thấy rõ lòng em.
Yêu nhau từ một ánh đèn
Rồi trên những chuyến tàu để tàu đi, đi mãi.
.
Từ một điểm nhớ thương anh nôn nao trở lại
Ðón em
Chiều nay
Ðể đốt lên từ vầng mắt thâm gầy
Một ánh lửa chong suốt đời, trọn kiếp.
Em ơi em!
Ngược một đường đi giờ này em có biết
Lắc lư nghiêng ngã con tàu
Ta vẫn muốn đi mau
Ði thật mau để nhìn em buồn bên cửa gió.
Nhìn em,
Đôi dòng mắt mở
Trông tìm sân vắng, ga đơn.
Ðể rồi khi chớm nở giận hờn
Anh xuất hiện
Màu hoa lên ánh mắt.
Náo nức ngồi đây, thân tàu lay lắt
Ðón em
Chiều nay
Ðể đốt lên từ vầng mắt thâm gầy
Một ánh lửa chong suốt đời, trọn kiếp.
Em ơi em!
Ngược một đường đi giờ này em có biết
Lắc lư nghiêng ngã con tàu
Ta vẫn muốn đi mau
Ði thật mau để nhìn em buồn bên cửa gió.
Nhìn em,
Đôi dòng mắt mở
Trông tìm sân vắng, ga đơn.
Ðể rồi khi chớm nở giận hờn
Anh xuất hiện
Màu hoa lên ánh mắt.
Náo nức ngồi đây, thân tàu lay lắt
.
Náo nức ngồi đây, thân tàu lay lắt
Mà thương nhớ xót xa trông chờ quay quắt.
Ta viết mau để quên tiếng xa gần.
Ðường dù dài nhưng chưa hết trăm năm
Tàu có chậm nhưng đường đi có hạn.
Ta sẽ gặp nhau giữa chiều hửng nắng,
Ta sẽ ôm em hôn trắng môi hồng.
Hôn thật lâu để trút nhớ cùng mong
Lên môi thắm hiền, yêu, chân thật.
Nghĩa là viết cho đến giờ gặp mặt.
Mà thương nhớ xót xa trông chờ quay quắt.
Ta viết mau để quên tiếng xa gần.
Ðường dù dài nhưng chưa hết trăm năm
Tàu có chậm nhưng đường đi có hạn.
Ta sẽ gặp nhau giữa chiều hửng nắng,
Ta sẽ ôm em hôn trắng môi hồng.
Hôn thật lâu để trút nhớ cùng mong
Lên môi thắm hiền, yêu, chân thật.
Nghĩa là viết cho đến giờ gặp mặt.
.
Đọc một mạch xong bài thơ, Thịnh hỏi:
- “Thơ của ai mà hay vậy? Của anh hả?”
Anh ấy nói:
- “Tôi có thử làm thơ, nhưng làm xong thì vứt bỏ, thấy nó dở
quá. Bài nầy của ông Đỗ Tấn, in trong báo, thấy hay, tôi chép lại tặng cô.”
- “Đỗ Tấn nào? Ông dạy Việt Văn ở trường Bồ Đề ấy hả?” Thịnh hỏi.
- “Vậy cô không biết chuyện tình của ông ta với cô Cao Xuân Y. ở
Nguyễn Hoàng hả?” Anh ấy hỏi.
- “Câu chuyện tình lãng mạn ấy ở thành phố nầy ai mà không biết.
Ông ta lớn tuổi, đã có vợ, nhưng lại là một nhà thơ. Còn cô giáo là cô gái mới
lớn, chưa từng biết yêu. Chuyện tình rắc rối thật đó.”
- “Rắc rối nên có người không dám yêu!” Anh ấy nói đùa.
- “Chưa chắc đấy, làm sao biết ai bạo gan hơn ai?” Thịnh cũng
nói đùa.
.
Dĩ nhiên là Thịnh và anh ấy yêu nhau. Anh ấy tỏ tình hôm anh rủ
Thịnh đi chơi Khiêm Lăng.
Trong nhà thủy tạ vắng vẻ, anh ấy quì xuống, run rẩy, nói không
ra lời. Một lúc sau, anh ấy hôn Thịnh, lần đầu tiên trong đời Thịnh mà cũng là
cái hôn đầu tiên trong đời của anh ấy. Cũng như mọi người, cái hôn đầu sợ hết
hồn hơn là ham muốn. Nhưng lẽ nào yêu nhau mà không hôn nhau.
Một lúc sau, bình tĩnh hơn, khi đứng ở hành lang nhà thủy tạ,
nhìn mấy con cá lội dưới hồ nước, Thịnh mới nói đùa một câu, cho anh ấy mau
“lại hồn”.
- “Làm gì mà nhát vậy, “run như run thần tử thấy long nhan.”
Anh ấy cười, trả lời: “Run thiệt.”
Thịnh nói tiếp:
- “Em có phải là chúa hay đức mẹ đâu. “Quỳ cạnh Chúa đám chiên
lành run rẩy”. Đám chiên nầy chỉ có một con nên run dữ.” Thịnh lại nói đùa.
.
Thế rồi những tuần tiếp sau, Thịnh không về quê. Thịnh và anh ấy
ở lại Huế, cuối tuần đi chơi lăng, từ lăng Minh Mạng, lăng Tự Đức, Thiệu trị,
Khải Định… không nơi nào hai người không tới. Đi chơi lăng cũng có nghĩa là đi
chơi Đồi Vọng Cảnh, thăm viếng các ngôi chùa nằm sâu, phía xa trong núi. Và
rồi, một đêm, quá vui, Thịnh liều ở lại với anh ấy, cho anh ấy cái gì cao quí
nhứt của đời con gái. Đó là một biến cố lớn, nhưng Thịnh đã yêu và đã liều.
Thấy vì “ham vui” nhiều quá, Thịnh đâm lo. Còn hai tháng nữa là
thi phần hai, Thịnh vẫn chưa học ôn hết bài. Mỗi lần đi chùa, Thịnh lại cầu
nguyện cho ngày thi được gặp may, trúng tủ.
.
Thịnh không gặp may. Không những Thịnh hỏng kỳ đầu, lại hỏng
luôn kỳ hai. Đó là một sự khiếp đảm. Cũng có người hỏng thi nên tự tử đấy. Có
cô gái, nhà ở Kim Long, không thấy tên mình trên bảng đậu, về ngang cầu xe lửa,
bèn buông xe đạp, nhảy xuống sông. Cả thành phố Huế náo động lên vì cái tin “cô
nữ học sinh”, không phải “mua chai thuốc chuột” mà lại nhảy xuống sông Hương.
Thi cử, đối với bọn học trò Huế là một biến cố trọng đại. Ra làm
cô giáo, hay cao hơn, kỹ sư bác sĩ, hay chuyên môn như nữ hộ sinh, y tá, v.v… hay
làm nghề buôn bán vất vả, tất cả chỉ thuộc vào một cái tên được đánh máy lên
trên bảng yết kết quả thi… Nó quan trọng hơn cả việc lấy chồng, nếu người ta có
sắc đẹp chỉ bình bình, kỹ sư, bác sĩ không ngó tới. Cũng từ cái thực tế đó,
Thịnh cũng như các bạn của Thịnh có câu châm ngôn “Thà bị “bồ” đá, không thà
hỏng thi.” Cơm cha, áo mẹ, công thầy mà hỏng thi trời ơi! Có cái nào đau đớn
hơn!
Và Thịnh đã hỏng thi.
Thịnh trở về quê, ở nhà với mẹ, với một nỗi buồn mênh mông vì
hỏng thi, không trở lại trường, tự học lấy, sang năm thi “tự do”.
.
Thế nhưng Thịnh lại lấy chồng.
Năm ấy, một người cùng làng, du học ở Pháp về, đang giữ một chức
vụ lớn ở Saigon, về thăm quê, thăm ba má Thịnh và xin cưới Thịnh.
Mẹ Thịnh thấy con đang buồn vì hỏng thi, lại thấy anh ta học
hành bên Tây về, bằng cấp cao, tương lai sáng lạn, nên khuyên Thịnh.
Thịnh đang hối hận nhiều chuyện. Chuyện tình yêu như lửa cháy,
nóng vội và liều lĩnh, chuyện hỏng thi và những câu nói của bạn bè “Người tình
không phải là người chồng”. Hai người ấy khác nhau như thế nào? Người tình là
người nghệ sĩ, lãng mạn, đàn giỏi, hát hay, thơ văn bay bổng…Người chồng thì
phải bảo đảm tương lai cho vợ. Lấy một ông kỹ sư, bác sĩ, có chức vụ cao ở bệnh
viện, ở ngành y tế, có phòng mạch… Chẳng bao lâu sẽ có xe hơi, có biệt thự…
Người tình không bao giờ có thể đem lại những điều hạnh phúc, sung sướng như
người chồng.
Trong ý nghĩa đó, Thịnh bằng lòng.
Rồi Thịnh theo chồng vào Saigon, ít khi về quê, không gặp lại
người cũ. Thịnh đi một mạch trên một đoạn đường dài. Có thế lực, giàu có, tuần
lễ trước ngày 30 tháng tư 1975, Thịnh đã cùng chồng di tản sang Mỹ.
.
'Anh thân yêu!
Nghe tin anh ở Đông Hà, Thịnh muốn về thăm anh, dù câu chuyện cũ
đã qua nửa thế kỷ rồi đấy.
Không phải Thịnh đi tìm chuyện quên hay nhớ, nhưng khi xa anh,
Thịnh cứ nghĩ cuộc đời của mỗi chúng ta như môt giòng sông chia hai, không bao
giờ gặp nhau lại nữa.
Thế rồi mỗi giòng sông đều có nhiều hạnh phúc và nhiều nỗi
thương đau. Thịnh không có con cái gì cả. Anh ấy qua đời cũng đã mười năm.
Thịnh sống cuộc đời cô quạnh nơi xứ người, nhưng tất cả rồi cũng quen đi anh à.
Đời sống, dù ở đâu, nó cũng có những nỗi vui buồn. Nếu Thịnh bỏ xứ Mỹ mà về lại
quê nhà, chắc gì Thịnh sẽ không cảm thấy cô đơn, chắc gì Thịnh sẽ không có
những nỗi vui buồn như khi Thịnh sống ở xứ Mỹ nầy.
Thịnh lấy chồng, bỏ xứ đi mất, nhưng Thịnh vẫn nghĩ sâu trong
lòng: “Với anh là Tình, với chồng là Nghĩa”. Thịnh không thể quên đi, quên đi
chứ đừng nói là mau quên, một mối tình đầu, mối tình độc nhứt, mà cũng là mối
tình đẹp nhất, ít ai có được. Tuy vậy, Thịnh cứ để kín trong lòng, không
thương, không nhớ, không tiếc, không buồn…
Chỉ buồn là mới năm ngoái đây, Thịnh lại có được tin anh.
Anh cũng rời bỏ ngôi trường anh đang học, nhập ngủ sau khi “được
tin em lấy chồng”. Cuộc chiến tàn để lại trên thân thể anh những dấu tích không
bao giờ lành hẵn được. Dấu tích trên thân thể và cả những dấu tích trong tâm
hồn. Rồi sau những năm tù đầy, anh chẳng còn gì hết, ngoài một tấm thân tàn,
trở về Đông Hà, nơi cố quận, chờ một ngày cuối đời, như anh nói với người bạn
anh. Người ấy cũng đã kể lại cho Thịnh nghe..
Từ Mỹ, Thịnh về Saigon, dự tính về Đông Hà gặp anh một lần nữa,
một lần chót, mà trước kia, Thịnh không bao giờ nghĩ tới. Dù sao, cũng phải
thăm anh một lần.
“Về Huế, Thịnh dự tính ngày mai sẽ về Đông Hà, gặp anh.
“Nhưng rồi chiều hôm qua, Thịnh lại đi dạo phố Trần Hưng Đạo,
Gia Long như ngày xưa, những ngày nghỉ Thịnh thường đi dạo phố vậy. Mùa xuân,
Thịnh mặc áo màu hoàng yến. Cái hình ảnh của Thịnh ngày ấy, anh còn giữ trong
lòng không? Hình ảnh ấy có phải là của một nữ hoàng, một Lý phu nhân, một Dương
Quí Phi, không chịu gặp hoàng thượng, chỉ cắt một nắm tóc gởi cho hoàng thượng
để tỏ lòng nhớ thương......
Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa, thiếp phụ chàng...
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa, thiếp phụ chàng...
.
Anh thân yêu!
Cái đẹp của Thinh ngày xưa không còn nữa, tuy tóc chưa bạc hết,
da chưa mồi, nhưng làm sao Thịnh còn được những đường cong, không có những nếp
nhăn trên mặt…
Đang dạo phố, tự nhìn hình mình trong một tủ kính cửa hàng nào
đó trên đường Trần Hưng Đạo, Thịnh bỗng thấy sợ nếu gặp lại anh. Màu hoàng yến
không còn “ăn” với màu da của Thịnh nữa. Mái tóc cắt ngang nửa lưng nay khô
vàng, cứng, không còn bay bay theo gió như anh đã từng ca ngợi. Bước chân Thịnh
trên đường phố không còn thanh thoát nhẹ nhàng mà nặng nề, chậm lụt, nụ cười
không còn tươi mà ủ dột,… Tất cả đã hết rồi, một thời con gái.
Phi tần không chịu gặp vua vì nhan sắc đã tàn tạ. Thịnh có thể
gặp anh được không, hoàng thượng của Thịnh, khi nhan sắc Thịnh đã phai tàn?
Không anh à!
Một mối tình đẹp, những hình ảnh đẹp. Sao có thể xóa nhòa đi
được? Hình ảnh Thịnh trong tim anh có phải là một hình ảnh đẹp không? Sao Thịnh
có thể thay vào đó hình ảnh một … bà già.'
.
Vậy rồi Thịnh trở lại Saigon để sang Mỹ, sau khi gởi lai bức thư
và cái mà Thịnh gọi là “một chút quà mọn”. Chút quà mọn đó không giống như món
tóc mà Dương Quí Phi đã gởi cho Đuờng Minh Hoàng.
.
Và cũng không có hồi âm!
.
TÁC GIẢ: HOÀNG LONG HẢI
..
..
(Nguồn: sưu tầm)
.
(post lại)
.
(post lại)