
(Hình: Internet)
BÚN BÒ HUẾ
.
TÁC GIẢ: TUỆ CHƯƠNG
HOÀNG LONG HẢI
.....
Nước ta có ba miền, mỗi miền có những món ăn khác nhau:
Người Bắc ăn phở, người Nam ăn hủ tiếu, người Trung ăn bún bò. Nhìn chung như
vậy. Dĩ nhiên vài nơi có những đặc sản khác như Quảng Nam có mì Quảng, Bình
Định có bánh tráng, kể sao cho hết được.
....
Mì làm bằng bột mì, bún làm bằng bột gạo. Bột mì có nhiều
ca-lo-ri hơn bột gạo nên người sinh sống ở xứ lạnh thường ăn mì, người xứ nóng
ăn gạo. Ở xứ ta thì ngược lại, ngoài Bắc, ngoài Trung, lạnh thì ăn phở, bún bò
làm bằng bột gạo, miền Nam xứ nóng thì ăn hủ tiếu, mì làm bằng bột mì.
Có thể các món ăn nầy gốc từ bên Tàu di cư sang ta: Hoặc
theo gót chân phiêu bạt của người Lạc Việt thuở xa xưa mà xuống lưu vực sông
Nhị hoặc theo người Tàu chạy trốn nhà Thanh như Dương Ngạn Địch, Trần Thắng
Tài, Mạc Cửu mà "định cư" ở đồng bằng sông Cửu Long. Nghe chữ
"hủ tiếu" thì rõ. "Hủ tiếu" đâu phải là tiếng của người
Nam, nó là tiếng Tàu rặc được phiên theo âm Việt.
...
Phở là tiếng Tàu hay tiếng ta? Nhưng phở quả là món ăn
gốc tự bên Tàu. Người Pháp không phiên âm tiếng phở. Toàn Quyền Đông Pháp
Pasquier gọi nước mắm là "nước mắm", không gọi nó là "xì
dầu" hay dịch sang tiếng Pháp là một loại "xốt" lấy ra từ cá.
trong khi đó thì người Pháp gọi phở là "Soupe de Chinoise". Sao lại
là món "xúp" của Tàu. Họ từng thấy bên Tàu cũng có phở hay họ cũng bị
ám thị rằng văn minh Việt Nam bắt nguồn từ trong văn minh Trung Hoa?
....
Nói như thế thì bún bò không có nguồn gốc ngoại lai. Bún
bò rất Việt Nam, rất "dân tộc". Bún là tiếng "nôm", không
gốc gác họ hàng gì với tiếng Tàu cả. Bò là con bò, thịt bò, cũng là tiếng
"nôm", không dính dáng vì tới "ngưu" là tiếng người Tàu gọi
chung cả trâu lẫn bò. Miếng thịt bò nghênh ngang nằm trong tô bún thì gọi nó là
thịt bò, không ai gọi nó là "ngưu nhục".
......
Nếu phở là "Soupe de Chinoise" thì tô phở chắc
phải theo chân người Lạc Việt hay Tàu mà xuống đất Nam Việt, tức là vùng sông
Nhị ngày nay. Nói thế cũng chưa chắc đúng. Biết đâu sứ Việt Nam khi qua Trung
Hoa thấy tô phở ngon mà rước về, không có cờ quạt, lọng che như người xưa đón quan
trạng vinh qui mà phải học thuộc lòng cách nấu rồi dấu lén trong trí, như kiểu
ông Trạng Bùng dấu hột bắp nếp trong búi tóc để đem về nước Việt làm giống.
Người Tàu thường tự khoe là nước của Thiên Triều, cao hơn các dân tộc chung
quanh một bậc, nhưng không mấy khi hào phóng mà chia cho chư hầu một hột giống
bắp, giống đậu, hoặc cách chế biến một món ăn, một tô phở, mặc dù người Tàu bóc
lột chư hầu không thiếu phần triệt để.
....
Về bún bò thì đâu có riêng gì Huế mới có. Quảng Trị cũng
có bún bò vậy, còn Quảng Bình thì sao?
.....
Qua khỏi đèo Hải Vân, bún bò Đà Nẵng trở thành một món ăn
"lưu lạc" nơi xứ lạ quê người. Nó nằm lu thu một mình, lạc lỏng giữa
đám mì Quảng ồn ào như hải cảng Đà Nẵng nhưng lại chẳng cô đơn khi vào tới thủ
phủ miền Nam.Gốc gác tô bún bò là những cộng bún nằm trong tô thịt bò có nước
xáo thịt bò mà không có thịt heo. Có lẽ miền Trung có những ngọn đồi thoai
thoải thuận tiện cho việc nuôi bò, nhưng khi tô bún bò "định cư" ở Cố
Đô thì nó có phần "thay da đổi thịt". Bên cạnh bún và thịt bò, người
ta thêm vào đó một miếng giò heo. Đó là những cái chân của con heo đã cạo
trắng, không còn chút lông, cái móng già đã được lấy đi. Miếng giò heo được
chặt làm đôi, mỗi bên mỗi móng vì chân heo chỉ có hai móng hoặc là một khoanh
tròn phần trên của chỗ móng heo, đầy lên những da và thịt. Tại sao lại giò heo
mà không là thịt heo, như tên gọi của nó "bún bò giò heo" (không ai
gọi "bún bò thịt heo"). Lối ăn như thế là theo cách của người Tàu.
Người Tàu cho rằng tinh chất của mỗi động vật tụ lại nơi chân của nó cho nên
chân là phần bổ nhứt trong cơ thể con vật. Do đó, chúng ta thấy nhiều món ăn
làm bằng chân động vật bổ và ngon đáo để. Đó là món chân vịt nổi tiếng của nhà
hàng "Lạc Quần" Chợ Lớn nằm trên đại lộ Trần Hoàng Quân hay ăn món chân
vịt của nhà hàng Quốc Tế Cần Thơ. Một vài tiệm ăn nhỏ ở Hà Tiên cũng có món
chân vịt nầy, giá rẻ vì tại các cù lao trong vịnh Thái Lan nằm gần Hà Tiên
người ta nuôi nhiều vịt bằng thứ cá vụn ngư phủ đánh bắt được nhưng ít khi chở
lên bán ở Sài Gòn. Thi sĩ Nguyễn Hoàng Thu, tác giả tập thơ "Nét Gầy và
Mây", một người bạn tù cải tạo của tôi, kể cho nghe hồi anh làm lễ thành
hôn ở Phước Long, nơi nầy người ta nuôi dê khá nhiều nhưng ít ai biết làm thịt
dê. Một người Tàu biết nghề tình nguyện giúp anh bạn, chỉ đòi tiền công bằng
bốn cái chân dê. Đã là thịt dê mà lại ăn bốn cái chân, không biết có ai kinh
nghiệm để cho rằng nó hơn hay thua Viagra.
.....
"Bò teo heo nở" là kinh nghiệm các bà đầu bếp.
Vì vậy, trước khi bị miếng giò heo "bề thế" tấn công, các miếng thịt
bò đã vội teo lại khi đôi đũa của người đầu bếp lật qua lật lại chúng trong nồi
thịt xáo. Không như thịt heo chặt từng miếng to, thịt bò được thái mỏng, không
quá mỏng để khi nó teo lại người ta không thấy nó ở đâu cả, ướp gia vị tiêu
hành nước mắm trước khi cho vào nồi xáo. Khi thịt bò vừa chín, người ta cho nó
vào nồi nước bún bò.
....
Để nước xáo được trong, không như nồi nước lèo phở, nấu
lần thứ nhứt sôi, nổi bọt thì đổ nước đi nấu lại; người nấu bún bỏ vào nồi một
trái thơm gọt vỏ hoặc vài muỗng me khô, một bó sả. Tuy nhiên, người ta thường
nấu với thơm hơn me chua vì chất thơm làm cho giò heo mau mềm mà vẫn dòn.
.....
Ngoài miếng giò heo, tô bún bò Huế cầu kỳ hơn với những
miếng chuối bắp xắt lát, với những cọng rau quế trắng mà người ta cho rằng thơm
hơn rau quế đỏ. Chất chát của chuối bắp sẽ đẩy những mỡ, gia vị ra khỏi lưỡi,
để cho cái lưỡi được "sạch", miếng thịt heo ăn tiếp sau sẽ ngon hơn.
Các thứ thịt trong tô bún bò giò
heo không có mùi tanh, kể cả miếng giò heo to, nó có mùi béo ngậy, kích thích
giác quan người ăn. Cho nên có người ăn bún bò, không như khi ăn phở, không cần
ăn thêm rau quế. Rau chỉ làm cho miếng ăn thơm hơn.
....
Người nấu bún bò không mua loại heo nuôi theo kiểu công
nghiệp. Giò heo họ nấu phải là thứ giò heo cỏ, lông đen, nhỏ con do người ta
nuôi theo lối thủ công. Giò heo không lớn quá, mỡ không nhiều quá, da không dày
quá mà lại dòn, nước ngọt.
....
Bún bò giò heo là món ăn của người Huế, nói riêng. Người Huế, lại thích ăn ớt. Người nam ít thích ăn ớt, thấy tô bún ngon nhưng chỉ cứ ngồi nhìn, không dám đụng đũa. Trên mặt nồi bún là một lớp váng đỏ au do ớt bột tao với mỡ. Mặc dù người bán bún đã lấy cái vá chao trên mặt nồi cho váng ớt tan ra hai bên trước khi múc nước cho vào tô bún, bề mặt tô bún vẫn là một lớp ớt đỏ lóng lánh mỡ. Thế mà trên bàn, đôi khi còn có thêm một dĩa ớt sừng trâu hay ớt mọi (ớt hiểm) hay một chén tương ớt. Vừa ăn, thực khách vừa xuýt xoa vì cay, có khi toát mồ hôi, rớm nước mắt, trong cái bấc lạnh của vùng Châu Á Gió Mùa từ Biển Đông thổi về mới đúng với cái thú ăn bún bò trong mùa lạnh..
Bún bò giò heo là món ăn của người Huế, nói riêng. Người Huế, lại thích ăn ớt. Người nam ít thích ăn ớt, thấy tô bún ngon nhưng chỉ cứ ngồi nhìn, không dám đụng đũa. Trên mặt nồi bún là một lớp váng đỏ au do ớt bột tao với mỡ. Mặc dù người bán bún đã lấy cái vá chao trên mặt nồi cho váng ớt tan ra hai bên trước khi múc nước cho vào tô bún, bề mặt tô bún vẫn là một lớp ớt đỏ lóng lánh mỡ. Thế mà trên bàn, đôi khi còn có thêm một dĩa ớt sừng trâu hay ớt mọi (ớt hiểm) hay một chén tương ớt. Vừa ăn, thực khách vừa xuýt xoa vì cay, có khi toát mồ hôi, rớm nước mắt, trong cái bấc lạnh của vùng Châu Á Gió Mùa từ Biển Đông thổi về mới đúng với cái thú ăn bún bò trong mùa lạnh..

(Hình: Internet)
.......
Khi chiến tranh lan tràn rộng hơn, nhiều người miền Nam
ra phục vụ ngoài Trung, người ta bỗng thấy xuất hiện những tô bún bò có giá
sống. Thế là không xong rồi. Khó có thể có sự hòa hợp hòa giải "loạn xà
ngầu" giữa tô phở Hà Nội, tô bún bò Huế và tô hủ tiếu miền Nam. Thật đấy,
người khó tính chẳng bao giờ chịu một tô bún bò giá sống nửa Nam nửa Trung.
.....
Ăn bún bò Huế, không ít khi tôi nhớ tới bún bò Quảng Trị,
quê tôi. Bún bò Quảng Trị "chơn chất" hơn. Bún bò là bún bò, không có
cái đuôi "giò heo" theo sau. Khi tôi mới lớn, ăn bún bò, thấy nồi
nước xáo của mấy chị, mấy mự (mợ) mấy dì bà con xa gần bên ngoại tôi là nồi
đất, chưa "hiện đại" như sau nầy để có nồi nhôm. Bún làm bằng gạo
trắng, nhiều khi gạo đỏ, và cọng bún lại nhỏ hơn cọng bún của tô bún bò Huế.
Thuở ấy, cả thị xã chỉ có mấy tiệm ăn, người ta bán phở: phở nước, phở xào, chớ
không bán bún bò bao giờ. Muốn ăn bún bò, phải ăn bún gánh của những người đi
bán dạo. Sau nầy, khi tôi xa xứ rồi mới nghe nói tới những quán bún bò giò heo
bên bờ sông Thạch Hãn, gần Ty Thông Tin, hay bún bò giò heo trên đường Phan
Thanh Giản như trong hồi ký của cô giáo Bùi Ngọc Lan. Tôi là dân Quảng Trị
chính cống mà không được cái may mắn như cô giáo trẻ từ Huế ra dạy ở trường
Trung Học Nguyễn Hoàng.
....
Với Huế, người ta có thể nhắc tới Vĩ Dạ qua hình ảnh
"thuyền chở trăng", "hoa bắp lay", hay "lá trúc che
ngang mặt chữ điền" như trong thơ Hàn Mặc Tử.
Quả thật tôi không về Vĩ dạ để xem trăng ở vườn nhà ai mà lại chui vào chợ Vĩ
Dạ ăn bún bò viên. Bún bò viên không có giò heo, mà chỉ có những viên thịt bò
to gần bằng ngón chân cái, ăn một lần nhớ một đời. Nó không phải là thứ thịt bò
xay như ở Sài Gòn hay bên xứ Mỹ nầy. Người ta xắt nhỏ miếng thịt bò rồi bỏ vào
cái cối đá quết cho thật nhuyễn như làm nem chả. Quết xong, miếng thịt dính
chặt vào nhau như miếng cao su non. Thịt xay thường rã rời, không dính chặt với
nhau như miếng thịt quết. Sau đó, người bán nêm gia vị sao cho vừa miệng người
ăn. Làm việc nầy, người chủ không cần dấu nghề như các tiệm nem chả của người
Bắc ở S2i Gòn, nhưng nêm sao cho được ngon là điều rất khó cho ai muốn học
nghề. Tôi biết ăn bún bò viên Vĩ Dạ, chỉ là một sự tình cờ. Thưởng thức món
ngon ấy chưa được bao lâu thì xảy ra biến cố Tết Mậu Thân, tôi đành nhập ngũ,
để lại phía sau những tô bún bò viên từ bấy đến nay chưa từng được trời cho
hưởng lại cái lộc ăn ấy một lần nữa.
....
Tôi vốn dĩ có tính bướng. Đi ăn giỗ nhà bà con, tôi không
ưa những món chay giả mặn. Ăn chay mà cũng có món nem chả sườn,
giò và cả bún bò giò heo. Món ăn chay không ngon hay tôi có định kiến với những
món ăn giả mặn đó. Mấy năm làm "giáo tại gia" nhà một ông chú họ, mỗi
rằm và mồng một cả nhà ăn chay, nếu nhằm ngày nghỉ không bận đi học, thế nào
tôi cũng ra quán bún bò Mai Lợi phía ngoài cửa Đông Ba, bên cạnh vườn hoa, cách
nhà tôi không xa để ăn một tô bún bò mà thường gọi đùa là "trả thù
đời". Đời bắt tôi tu nhưng chẳng bao giờ tôi chịu tu. Với bao nhiêu tô bún
bò trong đời, khi xuống địa ngục chắc tôi sẽ ở tầng chót và kiếp sau hóa thành
"Trư Bát Giới". Biết đâu đó là điều vui!
.....
Bún bò giò heo Huế cũng mang "tính giai cấp"
như trong cộng đồng nó hiện hữu. Cà phê Lạc Sơn là nơi lui tới của những người
có tiền có bạc, công chức sĩ quan thì bún bò ở đây tô vừa to, cục giò cũng vừa
to và làm nhẹ túi tiền của khách thưởng thức. Muốn ăn tô bún ngon thật sự thì
lên quán cô Ba đầu dốc Nam Giao hay bún bò Mụ Rớt ở Ngự Viên. Bún bò Ngự Viên
mới xuất hiện khoảng đầu thập niên 1960, khi Ngự Viên không còn nữa, đã biến
thành một xóm lao động nhà cửa chen chúc. Nghĩ tội nghiệp cho các công chúa,
cung phi ngày xưa, hồi ấy làm gì có bún bò Ngự Viên cho vua "ngự" hay
các nàng dùng để "thời".
.....
Cảnh "tang thương" ấy ngày xưa công chúa cung
phi gánh chịu đã đánh, người đời nay đâu tránh khỏi. Tết Mậu Thân, ông Rớt bị
Việt Cọng bắn ngay trước cửa nhà ông, vì tội ông ta bán bún bò ngon cho
"tên ngụy ăn vào cho sảng khoái để mạnh tay đánh phá cách mạng" như
họ thường lý luận một cách triệt để hay ông có tham gia đảng phái Quốc Gia mà
họ gọi là "phản cách mạng". Tới tiệm Mụ Rớt ăn tô bún, chưa chắc
người ta quên đi hình ảnh ông Rớt bị bắn chết nằm chèo queo trên mặt đường, mất
đi cái vui thuở binh đao chưa về tận xóm Ngự Viên nầy.
....
Vốn có cuộc sống "kín cổng cao tường", các bà
các cô gái Huế không mấy khi ra ngồi tiệm ăn bún bò. Cắn miếng thịt heo to, ớt
đỏ dính quanh mồm, vừa ăn vừa hít hà hay xì xụp giữa chỗ đông người là việc
không mấy khi họ chịu làm. Thế nhưng không phải họ không được ăn những tô bún
ngon. Họ ở nhà ăn bún gánh, là bún của những người gánh bán dạo từng nhà. Đừng
tưởng rằng những tô bún gánh nầy ít ngon. Thật ra, có gánh còn ngon hơn cả bún
bò Mụ Rớt hay Cô Ba. Người sành ăn không ăn bún gánh sớm. Họ chờ hơi trưa, khi
bụng đói hơn chút nữa, khi nồi nước xáo rặc bớt nước, cô lại. Đó là lúc
"cao điểm" của một tô bún bò ngon.
.
.

(Hình: Internet)
...
Mỗi người bán gánh có một khu vực riêng, coi như giang
sơn của họ, một thứ luật bất thành văn, người ở giang sơn bên cạnh ít khi xâm
lăng vào. Do đó, trong những người bán bún gánh với nhau, không có chuyện cải
cọ tranh giành khách ăn. "Cộng đồng bún bò gánh" đó có trật tự kỷ
cương hơn bất cứ một cộng đồng người Việt nào.
.....
Buổi sáng, khi trời còn mờ mờ, người ta thấy các chị, các
dì gánh những gành bún bò nối đuôi nhau từ phía bên kia cầu An Cựu, cống Phát
Lái như một toán lính hành quân đi dọc theo một trục lộ. Lò than còn cháy đỏ
xua bớt chút lạnh còn vướng vất của buổi sớm mai, có khi bếp lửa còn khói tuông
ra, loãng dần trong không khí. "Đạo quân bún gánh" đó qua khỏi cầu An
Cựu tỏa ra nhiều nhánh, rẽ tay trái lên An Lăng, Phú Cam, Bến Ngự, Nam Giao, Ga
Huế, hay rẽ xuống Vĩ Dạ, chợ Cống. Đông nhứt vẫn là những gánh bún vượt qua cầu
Trường Tiền xuống phố Đông Ba, Ô Hồ, qua Gia Hội hay lên Thượng Tứ, tiến chiếm
các mục tiêu trong nội thành, vào tận Lương Y, Tây Lộc. Nếu tò mò hỏi, chúng ta
biết hầu hết những người bán bún gánh đều ở xóm An Cựu. Đó là nghề truyền thống
của một cái xóm nhỏ, nổi tiếng như loại "nem An Cựu" nếu so với
"nem Thủ Đức" thì Thủ Đức thua xa.
......
Vào Sài Gòn, nhớ Huế, đố ai khỏi nhớ tô bún bò Huế. Người
ta có thể ghé quán Hạnh Lợi trên đường Hiền Vương, gần ngã tư Pasteur để
"làm một chầu cho đã nhớ". Hạnh Lợi có nhiều món ăn Huế: nem chả,
bánh bèo, bánh nậm, bánh bột lọc bọc tôm thịt, nhưng tôi chỉ thích bún bò. Nó
là Huế bậc nhứt trong những món ăn Huế. Chả ở đây vẫn ngon hơn chả Quốc Hương
trên đường Trần Hưng Đạo. Chả Huế làm bằng thịt quết, không thêm bột nên miếng chả
vị ngọt hơn. Người Sài Gòn cái gì cũng vội: Ăn vội, đi vội, nói vội theo cuộc
sống văn minh. Họ không có thì giờ ngồi nhâm nhi miếng chả để phân biệt cái nào
là thịt, cái nào là bột lạt lẽo trong miếng chả đang ăn.
......
Nếu chỉ muốn ăn có mỗi một món bún bò, người ta đến
"Bún Bò Quốc Việt" trên đường Lê Văn Duyệt, chỗ gần cuối đường. Quán
nầy trông có vẻ bình dân, ghế bàn xộc xệch, dành cho lính tráng gốc Huế hơn là
khách văn nhân; nhưng tô bún bò Quốc Việt không kém tô bún bò Huế chính cống.
Năm 1970, tôi có cô bạn nữ quân nhân người Nam, tên là Nguyễn T. Thanh Nh. làm
việc cùng cơ quan, một người hễ khi tôi nói gì về Huế thì vễnh tai, tròn xoe
hai mắt như cố ghi vào trí vào lòng những gì tôi nói. Một lần tôi đãi cô ăn bún
bò ở đây. Nghe ăn bún bò, cô ta thích lắm, muốn "ăn cho biết". Nhưng
khi tô bún được bưng ra thì cô ta chỉ ngồi nhìn, không dám cầm đũa. Hỏi, cô ta
trả lời: "Ớt thế làm sao ăn, sợ quá!"
.....
Sau năm 1972, vị sợ chiến tranh, người Huế khăn gói vào
sống Sài Gòn nhiều hơn trong hành trình Nam Tiến của họ có mang hình ảnh tô bún
bò Huế. Do đó, sau năm 1972, Sài Gòn bỗng rộ lên nhiều tiệm bún bò. Sài Gòn đã
bị Huế xâm lăng cũng như mấy trăm năm trước, tô hủ tiếu gốc Tàu chế ngự thị
trường ăn uống Sài Gòn. ..
....
Bún bò cũng không sống nổi với Cọng Sản, chúng cũng vượt
biên và nhờ lòng ưu ái của nền đa văn hóa Mỹ, tô bún bò giò heo Huế nay đã định
cư ở Cali và vài nơi khác, chưa biết bao giờ nhập quốc tịch Mỹ.
....
Tôi ước ao tô bún bò sẽ không bị Mỹ hóa: Thêm một miếng
Hamburger chẳng hạn. Dù sao, tô bún bò khi chưa bị Mỹ hóa thì vẫn còn bản sắc
dân tộc Việt, bưng tô bún bò, nuốt những sợi bún phải chăng là nuốt vào lòng
"sợi nhớ sợi thương"......
..
Tác giả: Tuệ Chương Hoàng Long Hải
..
(st)
Tác giả: Tuệ Chương Hoàng Long Hải
..
(st)